RSS

Daily Archives: 07.09.2011

Chùm thơ xướng họa: Quan Họ

Chùm thơ xướng họa: Quan Họ
1-Quan Họ quê tôi
(Họa bài: Quan Họ -TG:Phong
Trần Ký –thisigan)
alt
Câu ca Quan Họ ngọt ngào rơi
Liền chị liền anh tíu tít mời
Cánh phượng trầu cay say lữ khách
Mớ ba khăn xếp đắm hồn tôi
Nhặt khoan cung bổng đưa chân lướt
Dìu dặt phím trầm thả nhịp trôi
Người hỡi! Người ơi! Về hội nhé
Thiết tha Quan Họ xốn xang đời.


5-9-2011/Trần Kim Lan
2-Thu nhớ
(Họa bài: Đôi khi –TG: Phong Trần ký –thisigan)
Lá vàng theo gió cuốn rơi rơi
Thu đến rồi đây dẫu chẳng mời
Mờ mịt sương giăng che ánh mắt
Nôn nao buồn phủ ngập hồn tôi
Dạt dào nỗi nhớ chờn vờn tới
Tha thiết niềm đau bảng lảng trôi
Không biết nơi xa người có thấu
Sợi tình thuở ấy vẫn vương đời.


5-9-2011/Trần Kim Lan
3-Giã bạn
(Họa bài: Giã bạn –TG: Phong Trần Ký -thisigan)
Con nhên giăng mùng lả lướt rơi
Hoa thơm bướm lượn xốn xang mời
Trăng thanh gió mát nôn nao khách
Ngồi tựa mạn thuyền náo nức tôi
Ngẫu hứng giao duyên dào dạt thắp
Người ơi người ở (1) ngọt ngào trôi
Tương phùng tương ngộ câu Quan Họ
Giã bạn dặt dìu quyến luyến
đời.
Ghi chú: Những chữ in đậm, tên các bài hát.
(1): Tên bài hát: Người ơi, người ở đừng về
6-9-2011/Trần Kim Lan
4-Ngọt ngào hương quê
(Họa bài: Toàn qủa – TG: Phong Trần Ký- thisigan)
Nàng thơ thơ thẩn tả tơi rơi
Qủa đượm hương quê chẳng được mời
Xoài chín hoe hoe thơm mắt bạn
Sầu riêng mòng mọng khát môi tôi
Chôm chôm nhào tới vơ mà vuột
Chuối ngự gồng vô với cứ trôi
Ao ước tung mình về chốn cũ
Hái chùm trái ngọt khát khao đời.
7-9-2011/Trần Kim Lan
5-Mưa nắng đời người
(Họa bài: Áo ấm cơm no – TG: Phong Trần Ký – thisigan)
Mưa nắng thất thường bão táp rơi
Dẫu rằng không muốn có ai mời
Thiên tai ập đến sầu muôn nẻo
Địch họa bủa vây khổ bạn tôi
Mơ ước bình yên yên chẳng đặng
Khát khao thoát khó khó nào trôi
Cầu Trời đoái tới thương nhân thế
Tích đức dương gian hoán cải đời.
7-9-2011/Trần Kim Lan
Chùm thơ xướng, họa – TG: Phong Trần Ký -thisigan
1-Quan Họ
(Xướng)
Cao giọng vút tầm uyển chuyển
rơi              
Lời ca dứt tiếng miếng trầu mời
Liền anh  dìu dặt mê man khách
Liền chị đong đưa ngớ ngẩn
tôi
Phím nhặt lả lơi dìu nguyệt
lướt
Tơ khoan réo rắt níu trăng
trôi
Người ơi! Ở lại đừng về nhé
Quan Họ đêm nay lạc thú đời
2008-Thi sĩ Gàn
2-Đôi khi
 (Họa bài: Thu nhớ -TG: Trần Kim Lan)
Lắm lúc thi tràn thoải mái
rơi
Từ buông ý thả chẳng cần mời
Rồi say bóng nguyệt lay hồn khách
Chợt nghẹn nàng thơ lánh mặt tôi
Bất đắc nong vần lờ lững ẩn
Vô chừng kén chữ phũ phàng trôi
Xem ra vạn sự đều hư ảo
Dẫu thế nào chăng vẫn đẹp đời
5-9-2011/Thi sĩ Gàn
3-Giã bạn
(Họa bài: Nhớ suốt đời –TG:
Phạm Ngọc Phước)
Chia tay nhau nhé! Lệ đừng rơi
Giã biệt – Hội Lim tiễn khách mời
“Ngồi tựa mạn thuyền” rưng dạ bạn
“Mây trôi bèo dạt” ấm lòng tôi
Trầu têm cánh phượng môi nồng đọng
Nón đội quai thao mắt thắm trôi
“Đến hẹn lại lên” ta gặp lại
Hát câu Quan Họ đón xuân đời.
6-9-2011/Thi sĩ Gàn
4-Toàn quả
 (Họa bài: Thu nhớ – TG: Trần Kim Lan)
Ngóng cổ lên chờ trái khế rơi
Xoài chua cũng được gọt ra mời
Chanh đường tắc giọt mồ hôi vợ
Chùm ruột me ngào nước miếng
tôi
Cóc ổi rẻ rề ăn chẳng hết
Dâu tây đắt quá nuốt không
trôi
Bòn bon dừa lửa tha hồ nhé
Chuối sứ thanh long sướng thế đời
6-9-2011/Thi sĩ Gàn
5-Áo ấm cơm no
(Họa bài: Giã bạn –TG; Trần Kim Lan)
Nhà nông tính kỹ lúc mưa rơi
Để cánh đồng kia dáng gọi mời
Những vụ trắng trơn gây khổ bậu
Bao mùa thất bát gợi buồn tôi
Mơ trăng quá khứ về luôn tỏ
Ước phép thời gian níu chẳng trôi
Cuội hỡi xin hằng làm gió mát
Bội thu lúa ắp đẹp thay đời.
6-9-2011/Thi sĩ Gàn. 
 

Chương 11: IV. MẦU NHIỆM NƯỚC TRỜI

 

1. PHẦN KÝ THUẬT

Nhập đề

1 Ra chỉ thị cho mười hai môn đệ xong, Đức Giê-su rời chỗ đó, đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành thị trong miền.

Câu hỏi của ông Gio-an Tẩy Giả và câu trả lời của Đức Giê-su (Lc 7,18-28 )

2 Ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng:3 “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? “4 Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe:5 Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng,6 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”7 Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng?8 Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua.9 Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.10 Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.

11 “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.12 Từ thời ông Gio-an Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được.13 Cho đến ông Gio-an, tất cả các ngôn sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri.14 Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gio-an chính là Ê-li-a, người phải đến.15 Ai có tai thì nghe.

Đức Giê-su phán đoán về thế hệ của Người (Lc 7:31 -35 )

16 “Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác,17 và nói:
“Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà các anh không nhảy múa;
tụi tôi hát bài đưa đám,
mà các anh không đấm ngực khóc than.”
18 Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: “Ông ta bị quỷ ám.”19 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”

Khốn cho những thành đã chứng kiến các phép lạ mà không sám hối (Lc 10,13-15 )

20 Bấy giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối:21 “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối.22 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xi-đôn còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.23 Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà được làm tại Xơ-đôm, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay.24 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.”

Chúa Cha và người Con (Lc 10: 21 -22 )

25 Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.26 Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.27 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.

Hãy mang lấy ách của tôi

28 “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.29 Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.30 Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.”
Mátthêu
 

Nhãn:

BÀI 4: MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ QUAN LỘC”

BÀI 4: MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ QUAN LỘC”” 

Sinh giờ Tý và Ngọ thì Thân Mệnh đồng cung,
Giờ Sửu và giờ Mùi thì Thân cư Phúc
Giờ Dần và Thân thì Thân cư Quan
Giờ Mão và giờ Dậu thì Thân cư Di
Giờ Thìn và giờ Tuất thì Thân cư Tài
Giờ Tỵ và giờ Hợi thì Thân cư Phu
Người sinh giờ Dần, giờ Thân có Thân cư Quan. Cung Quan biểu hiện công danh và sự nghiệp. Hai chữ “Công Danh” và “Sự Nghiệp” nghe có vẽ rộng lớn và mơ hồ qúa. Nếu nói một cách gần gũi và rõ ràng hơn thì cung Quan diễn tả nghề nghiệp của một người và có thể chỉ rõ một ngành nghề nào đó như y khoa, điện tử, giáo sư, cảnh sát, quân nhân, ngân hàng, ngoại giao, văn học, nghệ thuật, kinh doanh thương mại v.v… Cung Quan cũng nói lên sự thành bại trong nghề nghiệp của một người.
Thân cư Quan ngay từ khi còn trong trường học, họ đã có những ý tưởng rõ ràng về ngành học mà họ chọn lựa vì đó là cửa ngõ đưa họ vào đời, là nghề nghiệp của họ sau này. Họ rất cân nhắc và thận trọng trong việc chọn nghề và thường là những nghề mà họ đã có sẵn năng khiếu và ưa thích. Họ không thích làm những nghề có tính cách tạm bợ, đã bước vào một ngành nghề nào thì đó sẽ là công việc mà họ sẽ theo đuổi suốt cả một đời. Mẫu người này cho dù làm công hay làm chủ cũng không thích đổi nghề. Nếu đi làm công thì ít khi bị mất việc. Có thể nói, họ là những người mà việc tìm họ chứ họ không phải vất vả đi tìm việc như những người khác, là mẫu người thừa hành đắc lực nhất. Họ là những nhân viên, những thuộc cấp và là những người cộng tác rất có tinh thần và trách nhiệm trong chức vụ của họ. Điều này dễ hiểu vì họ là những người yêu nghề, thích học hỏi. họ coi sự làm việc như một lạc thú ở đời chứ không phải là một nghề để sinh sống.
Những đặc điểm nêu trên là mẫu người Thân cư Quan mà có cung Quan tốt đẹp. Ngược lại nếu cung Quan xấu xa thì đó là hình ảnh của một người chậm công danh, lận đận trên đường công danh, và đây cũng là người sống chết với nghề của mình một cách vất vả, lao đao, hoặc là trường hợp đặc biệt của những người mà chúng ta thường gọi là “sinh nghề, tử nghiệp” chết vì tai nạn nghề nghiệp, thân bại danh liệt, hay bị tù tội vì nghề nghiệp nếu có thêm hung sát tinh, bại tinh hội hợp. Như vậy, quan niệm cho rằng người có Thân cư Quan sẽ làm Quan là một điều sai lầm. Làm quan hay làm công, thành đạt hay thất bại trong nghề nghiệp cũng phải tùy thuộc vào cung Quan tốt hay xấu.
Nhìn xa hơn, trong khoa Tử Vi, sự sắp xếp của 12 cung trên một lá số rất có ý nghĩa. Cung Quan nằm đối diện với cung Phu cho nên cung Quan có thể xem như cái bóng phản chiếu của cung Phu vậy. Do đó khoa Tử Vi cho rằng đối với những người có số 2 đời vợ, 2 đời chồng thì cung Quan là hình ảnh của người vợ hay người chồng thứ hai của đương số. Điều này rất có ý nghĩa đối với những người Thân cư Quan, cuộc đời còn lại của họ và cả nghề nghiệp của họ sẽ bị ràng buộc một cách chặt chẽ với người vợ/chồng thứ hai. Điều này chúng ta sẽ bàn kỷ hơn trong mẫu người Thân cư Phu.
Riêng đối với nữ Mệnh, các bà có số Thân cư Quan thì ngoài những nét đặc biệt đã nêu trên, cung Quan trong trường hợp này còn có ý nghĩa như một cung Phu, và một vài trường hợp điển hình mà chúng ta nói đến như: Một người đàn bà có số Thân cư Quan mà cung Quan bị Tuần hay Triệt án ngữ thì đường tình duyên cũng trắc trở không khác gì Tuần hay Triệt án ngữ ngay tại cung Phu vậy.
Trong trường hợp đó, một quan điểm khác của nhà tướng số Thiên Đức trong một bài viết về “Tai Nạn Trinh Tiết” ông khẳng định một cách mạnh mẽ rằng “…bất cứ là lá số của một người phụ nữ nào khi cung Quan hay cung Thân có Tuần hoặc Triệt, bất luận về yếu tố sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái khi về nhà chồng”. Như vậy theo quan điểm này thì bất cứ cung Thân an tại đâu và bất kể cung Thân hay Quan cho dù có các sao đoan chính tọa thủ, nếu bị Tuần/Triệt thì hai chữ “trinh tiết” của đương số cầm bằng như không có khi bước lên xe hoa lần đầu ít nhất 1 lần. Bao nhiêu lần và đổi qua những ngành nghề gì thì còn tùy thuộc vào cung Quan và toàn bộ lá số. Đặc biệt đối với những người Thân cư Quan thì nghề nghiệp mà họ thay đổi thường là cùng nghề hay cùng trong một lãnh vực với người chồng hay người vợ thứ hai của đương số.
Tóm lại, cung Quan biểu hiện cho công danh, sự nghiệp, tiền tài và danh vọng của một người, cho nên những người có số Thân cư Quan thì những yếu tố trên là mục đích mà họ sẽ mang hết tâm huyết của họ để đạt được.trong cuộc đời. Nữ Mệnh có số Thân cư Quan mà cung Quan bị Tuần/Triệt án ngữ mà còn gặp nhiều hung tinh hay sát tinh thì đương số nên lập gia đình muộn hoặc lập gia đình với một người đã trải qua một lần đổ vỡ trên đường tình thì mới có thể tránh được cảnh cô đơn góa bụa về sau. Đàn bà Thân cư Quan mà cung Quan bị nhiều hung tinh sát tinh ảnh hưởng thì đó cũng là số của những người có thể gặp những hoàn cảnh hay tai nạn làm mất danh tiết của mình.
Riêng đối với các ông, nếu là những người có quan niệm sống bảo thủ như ông bà của chúng ta ngày xưa, cho rằng người vợ chỉ là người hiền nội, chỉ là người đàn bà ở trong nhà lo việc nhà, săn sóc cho chồng cho con thì mẫu người đàn bà Thân cư Quan hoàn toàn không thích hợp với quý ông có quan niệm “chồng chúa, vợ tôi” Lý do dễ hiểu là những người đàn bà có Thân cư Quan có khuynh hướng độc lập rất mạnh. Họ muốn ra đời và muốn có một nghề nghiệp như đàn ông để suốt đời không bị lệ thuộc vào người chồng. Cuối cùng, trong ý nghĩa về nghề nghiệp, dù nam hay nữ, khi cung Quan bị Tuần/Triệt thì trong đời của đương số phải thay đổ nghề nghiệp
(Sưu tầm)
 
 

Nhãn:

Đại Thi Hào Nguyễn Du: Sơ lược tiểu sử – Truyện Kiều. (Phần 1: Từ câu 1 đến câu 670 )

Đại Thi Hào Nguyễn Du: Sơ lược tiểu sử – Truyện Kiều. (Phần 1: Từ câu 1 đến câu 670)

Open in new window– Ảnh: Tượng đài Đại Thi Hào Nguyễn Du.

– Nguyễn Du 阮攸 (13-1-1766 – 16-9-1820), tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm đã làm tới chức tể tướng triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có tám vợ, hai mươi mốt người con). Mười tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha, mười ba tuổi mồ côi mẹ. Vì thế tiếng là con quan đại thần nhưng ngay từ thời thơ ấu Nguyễn Du đã phải sống vất vả thiếu thốn. Truyện Kiều và Văn chiêu hồn, hai kiệt tác chữ Nôm của Nguyễn Du, rộng xin được giới thiệu riêng vào dịp khác. Tập sách này chỉ chọn lựa một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu của ông.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường nhật của chính ông. Cả ba cuốn Thanh Hiên thi tập (viết trong khoảng 1785-1802, khi Nguyễn Du lánh ẩn ở quê vợ, Thái Bình, rồi trở về Hồng Lĩnh và ra lại Bắc Hà làm quan triều Gia Long), Nam trung tạp ngâm (1805-1812, khi Nguyễn Du làm quan ở Huế rồi cai bạ Quảng Bình) và Bắc hành tạp lục (1813-1814, thơ viết trên đường đi sứ Trung Hoa) đều có một giọng u trầm thấm thía, đầy cảm xúc nội tâm. Thơ chữ Hán Nguyễn Du như một tiếng thở dài luận bàn nhân tâm thế sự và xót thương thân phận. Một hình ảnh trở đi trở lại là mái tóc bạc, Nguyễn Du có mái tóc bạc sớm, mái tóc như biểu tượng của lo nghĩ, của những nghiền ngẫm buồn thương và bế tắc “Tráng sỹ bạch đầu bi hướng thiên, Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên”, (Tráng sỹ ngẩng mái đầu tóc bạc, bi thương than với trời xanh: chí lớn một đời và miếng ăn hàng ngày cả hai đều mờ mịt). Với một tài năng, lại từng là con quan tể tướng, lời than ấy thật xót xa. Tây Sơn ra Bắc 1786, Nguyễn Du ôm mối ngu trung với nhà Lê, không cộng tác, tìm đường lánh ẩn chịu sống nghèo khổ. Những thiếu thốn vật chất đôi lúc lộ ra trong thơ: Quê nhà đại hạn, mười đứa con sắc mặt xanh như rau (“Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng”). Hoặc: Trong bếp suốt ngày không có khói lửa. Trước đèn phải mượn chén rượu cho gương mặt được hồng hào. Do vậy, ông thấy “Nhất sinh từ phú như vô ích, Mãn giá cầm thư đồ tự ngu” (Một đời chữ nghĩa thành vô ích. Sách đàn đầy giá chỉ làm ta ngu dốt). Lời nhận xét thật chua chát, bế tắc. Mái tóc bạc như một chứng tích tiều tụy cho cái nghịch lý ấy: Phơ phơ tóc bạc sống gửi ở nhà người, rồi: Già đến, tóc bạc đáng thương cho ngươi. Nói là già đến, nhưng lúc viết Thanh Hiên thi tập Nguyễn Du chỉ ở tuổi 20 đến 37. “Trù trướng lưu quang thôi bạch phát” (Ngậm ngùi vì ngày tháng giục tóc bạc). Mái tóc bạc thành bạn tri âm cho Nguyễn Du than thở: Tóc sương là bạn đi cùng. Mái tóc bạc bay trước gió thu. Mái tóc bạc nhuốm bụi hồng là chân dung tâm hồn của Nguyễn Du. Cả đời chưa thấy lúc nào ông đắc ý. Một sự chọn hướng trái chiều với bước đi của lịch sử làm Nguyễn Du ngùi ngẫm giằng xé cả một đời, ngay cả thời gian ra làm quan với Gia Long: Ơn vua chưa trả đỉnh đinh, Mưa xuân nhuần thấm nhưng mình lạnh xương. Tạ ơn mưa móc của vua nhưng lại thấy buốt lạnh trong xương cốt. Nỗi niềm ấy chúng ta hiểu cho Nguyễn Du. Nguyễn Du ôm một nỗi niềm éo le. Giáo lý Khổng Mạnh dạy: tôi trung không thờ hai vua. Nhưng với Nguyễn Du, vua phải thờ thì hèn kém, thậm chí rước voi về giày mồ (Lê Chiêu Thống), còn vua phải chống thì lại anh hùng, bảo vệ độc lập dân tộc (Quang Trung). Đau đớn, bế tắc của Nguyễn Du là ở đấy. Biết mà không vượt qua được, ông mong được hậu thế cảm thông: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như” (Ba trăm năm nữa nào biết được thiên hạ ai người khóc Tố Như). Tương truyền: “Khi ốm nặng, ông không uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ nói: đã lạnh rồi. Ông bảo: Được! Rồi mất. Không trối lại một lời”. Có một nỗi niềm đến phút cuối Nguyễn Du vẫn phải nén lại và mang đi. Buồn thương, cô đơn đã thành thuộc tính của đời ông như màu xanh là thuộc tính của cỏ Nhân tự bi thê, thảo tự thanh (Người tự buồn thương, cỏ tự xanh).

Hiện thực cuộc sống bi thương trong xã hội phong kiến cả ở nước ta lẫn ở Trung Hoa thuở ấy, từ cảnh ngộ dâu bể của cô Cầm đánh đàn ở Thăng Long đến nỗi cơ cực của ông già hát rong ở đất Thái Bình (Trung Quốc) đã cho Nguyễn Du thấy thân phận bèo bọt và những bất công mà kiếp người phải chịu. Từ chính cảnh ngộ của mình ông thông cảm sâu sắc, tạo nên tình cảm thấm thía cho những bài thơ thương đời. Thương đời và thương mình đều da diết như nhau. Nguyễn Du hay nói tới thân phận tha hương, lưu lạc. Nỗi nhớ quê nhà luôn luôn bàng bạc trong các bài thơ. Ông thấy tài năng văn chương như con chim phượng nhốt trong lồng nát và công danh thì cùng đường như con rắn đã chui trong hang (“Bình sinh văn thái tàn lung phượng, Phù thế công danh tẩu hác xà”). Ông viết bài thơ chống lại bài Chiêu hồn Khuất Nguyên của Tống Ngọc, ông xui Khuất Nguyên đừng về vì thành quách vẫn còn nguyên mà người đã đổi khác, bụi bặm cuồn cuộn làm nhơ nhớp cả quần áo. Ông khái quát: Đời bây giờ người người đều đều là Thượng Quan (Thượng Quan là kẻ gièm pha làm hại Khuất Nguyên) và mặt đất thì chỗ nào cũng là sông Mịch La (con sông Khuất Nguyên trẫm mình). Ở các bài vịnh nhân vật và luận về các sự kiện lịch sử Trung Hoa trong Bắc hành tạp lục, Nguyễn Du đã xuất phát từ quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người để cân đo lại trọng lượng các vĩ nhân và các chiến công ầm ỹ một thời.

Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du chúng ta hiểu cội nguồn chủ nghĩa nhân đạo của ông thể hiện trong Truyện Kiều và những ký thác đời ông vào hình tượng Kiều, nhân vật sắc tài mà bạc mệnh.

Vũ Quần Phương
(Sưu tầm)

Truyện Kiều. (Phần 1: Từ câu 1 đến câu 670)

Open in new window

1. Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5. Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình có lục còn truyền sử xanh.
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
10. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
15. Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
25. Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tư trời,
30. Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.
35. Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Ngày xuân con én đưa thoi,
40. Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.
45. Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
50. Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
55. Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rằng: Sao trong tiết thanh minh,
60. Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
Vương Quan mới dẫn gần xa:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.
65. Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.
Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
70. Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ.
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên ấy là mình với ta.
75. Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau.
Sắm xanh nếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn ác tà,
80. ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
85. Phũ phàng chi bấy hoá công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung,
90. Nào người tích lục tham hồng là ai ?
Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
95. Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,
Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
100. Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
105. Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu ?
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110. Thấy người nằm đó biết sau thế nào ?
Quan rằng: Chị nói hay sao,
Một lời là một vận vào khó nghe.
ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngả dậm về còn xa.
115. Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.
Một lời nói chửa kịp thưa,
120. Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ào ào đổ lộc rung cây,
ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
125. Mắt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa.
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển mới là chị em.
Đã lòng hiển hiện cho xem, Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.
130. Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
135. Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
140. Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
145. Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
150. Văn chương nết đất, thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.
155. Vẫn nghe thơm nức hương lân,
Một nền đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng,
160. Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
165. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo,
170. Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
Mảnh trăng chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
175. Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
Một mình lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:
Người mà đến thế thì thôi,
180. Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
185.Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa nương bên triện một mình thiu thiu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân.
Sương in mặt, tuyết pha thân,
190. Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
Chào mừng đón hỏi dò la:
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây ?
Thưa rằng: Thanh khí xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.
195. Hàn gia ở mé tây thiên,
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.
Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
Vâng trình hội chủ xem tường,
200. Mà sao trong sổ đoạn trường có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cùng người một hội, một thuyền đâu xa!
Này mười bài mới mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.
205. Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.
Xem thơ nức nở khen thầm:
Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường
Ví đem vào tập đoạn Trường
210. Thì treo giải nhất chi nhường cho ai.
Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình.
Gió đâu xịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.
215. Trông theo nào thấy đâu nào
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
Hoa trôi bèo dạt đã đành,
220. Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi !
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: Cơn cớ gì ?
225. Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa ?
Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.
Buổi ngày chơi mả đạm Tiên,
230. Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
Đoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Phận con thôi có ra gì mai sau !
235. Dạy rằng: Mộng triệu cớ đâu,
Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao.
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương.
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
240. Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.
Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình.
Cho hay là thói hữu tình,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.
245. Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.
Mây Tần khóa kín song the,
250. Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
Buồng văn hơi giá như đồng,
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.
255. Mành Tương phất phất gió đàn,
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
Vì chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,
260. Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.
Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu !
Gió chiều như gợi cơn sầu,
Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu.
265. Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
270. Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Mấy lần cửa đóng then cài,
Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu ?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.
275. Là nhà Ngô Việt thương gia,
Buồng không để đó người xa chưa về.
Lấy điều du học hỏi thuê,
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.
Có cây, có đá sẵn sàng,
280. Có hiên Lãm thúy, nét vàng chưa phai.
Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.
Song hồ nửa khép cánh mây,
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.
285. Tấc gang đồng tỏa nguyên phong,
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.
Nhẫn từ quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.
Cách tường phải buổi êm trời,
290. Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
Buông cầm xốc áo vội ra,
Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.
Lần theo tường gấm dạo quanh,
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.
295. Giơ tay với lấy về nhà:
Này trong khuê các đâu mà đến đây ?
Ngẫm âu người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm !
Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
300. Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.
Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
305. Thoa này bắt được hư không,
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về ?
Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
Sinh rằng: Phác họa vừa rồi,
Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa .
Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu .
405. Khen: Tài nhả ngọc phun châu,
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này !
Kiếp tu xưa ví chưa dày,
Phúc nào nhắc được giá này cho ngang !
Nàng rằng: Trộm liếc dung quang,
410. Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn .
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay ?
Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
415. Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa .
Trông người lại ngẫm đến ta,
Một dầy một mỏng biết là có nên ?’
Sinh rằng: Giải cấu là duyên,
420. Xưa nay nhân định thắng nhiên cũng nhiều .
Ví dù giải kết đến điều,
Thì đem vàng đá mà liều với thân !
Đủ điều trung khúc ân cần,
Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.
425. Ngày vui ngắn chẳng đầy gang,
Trông ra ác đã ngậm gương non đoài .
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,
Giã chàng nàng mới kíp dời song sa .
Đến nhà vừa thấy tin nhà,
430. Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu .
435. Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê .
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
440. Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa .
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?
445. Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp song đào thêm hương .
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi .
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
450. đinh ninh hai mặt một lời song song .
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương .
Chén hà sánh giọng quỳnh tương,
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng.
455. Sinh rằng: Gió mát trăng trong,
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam .
Chày sương chưa nện cầu Lam,
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng ?
Nàng rằng: Hồng diệp xích thằng,
460. Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri .
Đừng điều nguyệt nọ hoa kia .
Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai .
Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài,
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.
465. Thưa rằng: Tiện kỹ sá chi,
Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng .
Hiên sau treo sẵn cầm trăng,
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.
Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay,
470. Làm chi cho bận lòng này lắm thân !
So dần dây vũ dây văn,
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương .
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau .
475. Khúc đâu Tư mã Phượng cầu,
Nghe ra như oán như sầu phải chăng !
Kê Khang này khúc Quảng lăng,
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân .
Qua quan này khúc Chiêu Quân,
480. Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia .
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời .
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa .
485. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu .
Khi tựa gối khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày .
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu .
Khi tựa gối khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày .
Rằng: Hay thì thật là hay,
490. Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào !
Lựa chi những bậc tiêu tao,
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người ?
Rằng: Quen mất nết đi rồi,
Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao !
495. Lời vàng âm lĩnh ý cao,
Họa dần dần bớt chút nào được không .
Hoa hương càng tỏ thức hồng,
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu .
Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
500. Xem trong âu yếm có chiều lả lơi .
Thưa rằng: đừng lấy làm chơi,
Dẽ cho thưa hết một lời đã nao !
Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh .
505. đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầụ
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi !
Phải điều ăn xổi ở thì,
510. Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày !
Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,
Lứa đôi ai đẹp lại tày Thôi Trương .
Mây mưa đánh đổ đá vàng,
Quá chiều nên đã chán chường yến anh .
505. Trong khi chắp cánh liền cành,
Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên .
Mái tây để lạnh hương nguyền,
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
520. để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai ?
Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt lại đền bồi có khi !
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân .
525. Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân,
Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào .
Nàng thì vội trở buồng thêu,
Sinh thì dạo gót sân đào bước ra .
Cửa sài vừa ngỏ then hoa,
530. Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang.
Đem tin thúc phụ từ đường,
Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề.
Liêu dương cách trở sơn khê,
Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang.
535. Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.
Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,
Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi:
Sự đâu chưa kịp đôi hồi,
540. Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ,
Trăng thề còn đó trơ trơ,
Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.
Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,
Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy !
545. Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời .
Tai nghe ruột rối bời bời,
Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau:
Ông tơ ghét bỏ chi nhau,
550. Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi !
Cùng nhau trót đã nặng lời,
Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ !
Quản bao tháng đợi năm chờ,
Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm.
555. đã nguyền hai chữ đồng tâm,
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai .
Còn non còn nước còn dài,
Còn về còn nhớ đến người hôm nay !
Dùng dằng chưa nỡ rời tay,
560. Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà.
Ngại ngùng một bước một xa,
Một lời trân trọng châu sa mấy hàng.
Buộc yên quảy gánh vội vàng,
Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai .
565. Buồn trông phong cảnh quê người,
Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa .
Não người cữ gió tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày .
Nàng còn đứng tựa hiên tây,
570. Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.
Trông chừng khói ngất song thưa,
Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng.
Tần ngần dạo gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về,
575. Hàn huyên chưa kịp giãi dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao;
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
580. Một dây vô lại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
585. Điều đâu bay buộc ai làm ?
Này ai dan dậm, giật giàm bỗng dưng ?
Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
590. Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.
Hạ từ van lạy suốt ngày,
Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.
595. Mặt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
600. Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao ?
Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
605. Quyết tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha !
Họ Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm.
Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,
610. Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay.
Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
Hãy về tạm phó giam ngoài,
Dặn nàng qui liệu trong đôi ba ngày.
615. Thương tình con trẻ thơ ngây,
Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ!
Đau lòng tử biệt sinh ly,
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên !
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
620. Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.
Sự lòng ngỏ với băng nhân,
Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
625. Hỏi tên rằng: Mã Giám sinh.
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao
630. Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng !
635. Ngại ngùng giợn gió e sương,
Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Đắn đo cân sắc cân tài,
640. Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường ?
645. Mối rằng: đáng giá nghìn vàng,
Gấp nhà nhờ lượng người thương dám nài.
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Một lời thuyền đã êm dằm
650. Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi.
Định ngày nạp thái vu qui,
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong !
Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà.
655. Thương tình con trẻ cha già,
Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu:
Nuôi con những ước về sau,
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi.
Trời làm chi cực bấy trời,
660. Này ai vu thác cho người hợp tan !
Búa rìu bao quản thân tàn,
Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già.
Một lần sau trước cũng là,
Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau !
665. Theo lời càng chảy dòng châu,
Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.
Vội vàng kẻ giữ người coi,
Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
Vẻ chi một mảnh hồng nhan,
670. Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.

(Sưu tầm)

(Còn Tiếp)

 

Nhãn: ,

Nguyễn Trãi, ngôi sao Khuê của văn hóa Việt Nam- Sơ lược tiểu sử – Trích Thơ: Dạy con gái phải có đức hạnh – Ghẹo cô hàng chiếu.

Nguyễn Trãi, ngôi sao Khuê của văn hóa Việt Nam- Sơ lược tiểu sử – Trích Thơ: Dạy con gái phải có đức hạnh – Ghẹo cô hàng chiếu.

Sơ lược tiểu sử:

Open in new window
– Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai (tức là Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán.

Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê.

Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế.

Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc.

Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù.

Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi:

– Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?

Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước.

Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc.

Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách.

Trong bài tựa ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết: Bình Ngô sách “hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”.

Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh.

Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm). Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau.

Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: “Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo”.

Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân:

– Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc.

Do luôn luôn “lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ”, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn “bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi” (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi).

Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một “thiên cổ hùng văn”. Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc.

Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành.

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam.

Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại (tru di tam tộc) khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc.

Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại.

Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng “Ưc Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”.

Giáo sư sử học Văn Tâm
(Sưu tầm)

Dạy Con Gái Phải Có Đức Hạnh

Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Lòng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn ,
370. … (thiếu một câu)
Phận bồ liễu giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,

375. Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.
Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
380. Phận làm gái này lời giáo huấn ,
Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức : dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
385. Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
390. Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần .
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương :
Đẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,
395. Đạo chồng sánh quân thân chi đạo ,
Làm tôi con chỉ trung chỉ hiếu ,
Làm dâu thì chỉ kính mới nên .
Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền,
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo.
400. Bề thiếp phụ thuận tòng là điệu,
Cũng như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn nghìn đừng thói kiêu ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh phụ là mình làm chủ,
405. Trong đại hôn áo mũ thân nghênh ,
Kính người vợ phép ở Lễ Kinh
Chức phận phải chăm bề tần tảo ,
Trong khuê khổn giữ gìn khăn áo,
Trên từ đường trăm việc trơn tru.
410. Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ,
Dẫu nhiều ít sửa cho trong sạch.
Bằng nhường ấy thần minh lai cách ,
Câu “hữu trai ” nên tiếng để đời,
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
415. Người khôn ai nỡ nặng lời đến ai.
Bề nội trợ việc trong xem xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên,
Chớ khoe khoang lắm thóc nhiều tiền,
Ngồi ăn mãi non mòn núi lở.
420. Việc nhà có kẻ ăn người ở,
Từ trong ngoài như bảo trước sau,
Đồ làm ăn, ngày để đâu đâu,
Ban tối phải thu về cho đủ.
Trống canh một chớ đà vội ngủ,
425. Siêng năng thì chăm chú việc ta.
Lũ nô tỳ trai gái năm ba,
Cơm chưa chín không nên khua xáo.
Đứa xay thóc, đứa thì gĩa gạo,
Đứa bếp thì chủ việc cơm.
430. Ăn đoạn rồi cho chúng nghỉ ngơi,
Đèn ta sẽ soi trong bếp lại.
Đùng tin trẻ tôi đòi thơ dại,
Lời dạy rắng “giữ lửa chẳng chơi”.
Cho hay đại phú bởi trời ,
435. Nhưng mà ở thế thì người hết chê.
Cầm then khóa giữ bề thu phát ,
Chắt chiu mà dè dặt mới nên,
Coi sóc từ hạt gạo đồng tiền,
Đừng cậy có ăn càn, tiêu dở.
440. Bữa thường phải xem cho con ở,
Cũng đừng thừa, chớ thiếu làm chi.
Kẻ lân bang đến một đôi khi,
Đồ thết đãi xem cho tử tế.
Trong nhà phải bảo nhau có ý,
445. Đừng chửi mèo, mắng chó mà chi.
Trong anh em thiên tải nhất thì .
Sang vì vợ nhưng giàu vì bạn.
Chiều rộng hẹp tùy cơ ứng biến,
Đạo trì gia đãi khách khác màu,
450. Trần trần một mực nên đâu,
Phô loài bồ các biết đâu lẽ gì,
Phận là gái về làm dâu cả,
Việc ta chăm giữ chốn từ đường,
Lấy ngọn tần, lá tảo lễ thường
455. Kìa hiếu dưỡng Thành Chu gia pháp .
Tôn tộc đến những khi kỵ lạp ,
Xem bằng nhường quí khách, gia tân .
Có chữ rằng: “đạo trọng thân thân”,
Dễ mấy thủa đông như ngày giỗ.
460. Lúc lễ tất lẻn vào dọn cỗ,
Hãy pha trà tiếp đãi cho xong,
Bữa thường dù dưa muối mặc lòng,
Khi có họ xem cho tử tế,
Nước đã đoạn rượu liền nhân thể,
465. Giục tiểu hầu bưng cỗ tiếp ra.
Nhà dưới ta mời họ đàn bà,
Coi sóc hỏi họ hàng con cháu.
Không bỏ sót là tình yêu dấu,
Ai chẳng khen hiền đức phụ nhân ,
470. Trọn đời đẹp mặt phu nhân,
Vì chưng chủ phụ thân thân biết điều.
Bề phụng dưỡng đôi bên cha mẹ,
Muôn một khi đá đổ bồ hôi,
Nghĩ xa lo đứng lo ngồi,
475. Chẳng còn tưởng đến tham công tiếc việc.
Đường điều hộ tiền không dám tiếc,
Mặc phu quân giữ việc thuốc thang,
Song ta nâng giấc giữ giàng,
Điều ăn uống phải hỏi han tuỳ thích.
480. Lòng người ước chim, gà, cá, thịt,
Của nên ăn dù đắt cũng mua.
Tùy người ưa thức ngọt chua,
Nhưng gia vị phải mong cho đủ mùi.
Xem quần áo nên thay kẻo bẩn,
485. Lòng yêu thân phải cẩn từng khi,
Tấm lòng trời đất chứng tri,
Dâu hiền có hiếu, tiếng ghi để đời.
Này con gái thuộc về khôn đạo ,
Khôn đức nhu nết gái dịu dàng,
490. Một đôi khi chân bước ra đường,
Bề tôn trưởng thì lòng kính nhượng .
Dù chẳng phải là ta hơi hướng,
Nghĩa hương lân phải cất tiếng chào.
Bằng thấy người đầu bạc tuổi cao,
495. Có mang đội trình đòi nâng đỡ.
Thì miệng lưỡi chê bai ai nỡ,
Ở trên đời gái ở nết na
Con hiền đẹp mặt mẹ cha,
Chồng hòa yêu chuộng, họ hòa kính chung.
500. Dạy những kẻ đàn bà con gái,
Gặp phải chồng cờ bạc rượu chè,
Nay ông tơ, bà nguyệt trót xe,
Duyên phận ấy trót làm sao được.
Ở là phải tìm mưu giả chước,
505. Ngọt lời khuyên lâu cũng phải nghe,
Lúc ham mê cơm rượu say nhè,
Hãy cơm cháo trọn bề phụ đạo .
Chớ vợ nghiến chồng, thêm trân tráo,
Như chuyện chi lửa cháy dầu thêm,
510. Chẳng bằng khi chăn ấm chiếu êm,
Hãy năn nỉ đường khôn lẽ phải.
Bề ân ái vợ chồng là ngãi,
Dẫu giàu ăn, khó chịu cho cam.
Hay gì yến bắc, nhạn nam,
515. Khăng khăng một tiết cho cam sở nguyền.
Đạo vợ chồng là duyên kim cải ,
Vốn trời sinh bể ái nguồn ân,
Kìa ai nổi trận phong vân
Cũng vì gái nhiều phần nhầm lỗi.
520. Phận là gái ít đường giáo hối ,
Thấy chồng yêu dễ lấy làm nhờn,
Miệng sai ngoa nói những giọng càn,
Bụng kiêu ngạo một ngày một sính,
Đạo cha mẹ đã không biết kính,
525. Bề anh em lại chẳng hay nhường,
Chua chát thay những tính cương cường
Ai là đá ru mà chịu vậy!
Đường gia pháp không ăn lời dạy,
Việc giáo hình đến phải ra tay,
530. Hổ thân tiếng khắp đông tây,
Nông nỗi ấy hết đương khôn khéo.
Khuyên những các đào tơ liễu yếu,
Lấy làm gương chớ bắt chước chi,
Một niềm kính thuận vô vi,
535. Trước là khỏi nhục, sau thì nên danh,
Thương những kẻ đàn bà mất dạy,
Lại gặp chồng sợ vợ như ma,
Trách chi mà chẳng thói kiêu ngoa,
Những lừa cạnh, phô sòng, làm lệ.
540. Bề họ mạc không hay kính nể,
Nghĩ bon chen tiền bạc là khôn,
Đường gia tài khôn biết vén vun,
Nghĩ tha thướt áo quần là khéo,
Gà eo óc, phòng loan uốn éo,
545. Bầng mắt ra đã tỏ vầng ô,
Việc trong ngoài khí dụng các đồ,
Mặc con cái gặp sao hay vậy,
Bề nội ngoại những phô loài ấy.
Phúc đức kia còn nói làm chi,
550. Khen cho bà nguyệt khéo xe,
Anh này sánh với chị kia đương vừa.
(Trích từ “Gia Huấn Ca”)

Ghẹo Cô hàng Chiếu

Ả ở đâu mà bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn
Xuân thu phỏng độ bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa, được mấy con ?

Thơ đối đáp hoạ nguyên vận của Nguyễn Thị Lộ:

Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
Can chi ông hỏi hết hay còn ?
Xuân thu phỏng độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, có chi con!

Nguyễn Trãi
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

T.T.KH: Hai Sắc Hoa Tigôn Và những bí ẩn

HAI SẮC HOA TIGÔN

Open in new window
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người ấy với yêu thương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng lạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng thế thôi.

Thuở đó nào tôi có hiểu gì,
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy.

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường.

Từ đấy thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ.
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
“Người ấy” cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tâm bóng một người.

Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhung hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi,
Một mùa thu cũ rất xa xôi.
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu…
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng.

T.T.KH

Những Bí ẩn Quanh T.T.KH Và ” Hai Sắc Hoa Ti-gôn.

Ðã gần 7 thập niên, kể từ khi 4 bài thơ độc đáo của TTKH được phổ biến trên 2 tạp chí Tiểu thuyết thứ bẩy và Phụ nữ thời đàm ở Hà nội. Giới văn chương, báo chí cũng như những người yêu thích thơ văn tiền chiến đã tốn khá nhiều bút mực, công lao để tìm hiểu về thân thế và con người thật ngoài đời của bà, nhưng đến nay vẫn còn nhiều mù mờ ! Gần đây đã có vài khám phá đáng mừng, dù vậy văn học sử vẫn còn cần thời gian để kiểm chứng mức độ chính xác của nó .

Trong suốt thời gian dài vừa qua, biết bao nhiêu những dữ kiện được thêu dệt rất lãng mạn liên quan đến tác gỉa bởi những người yêu thơ của bà cũng như những nhà làm văn nghệ…Vài người còn tưởng tượng hay đưa ra những chứng minh tự nhận mình là người yêu của bà !.

1.Sự xuất hiện TTKH. trên thi đàn tiền chiến:

Vào khoảng giữ năm 1937, trên tạp chí ’’ Tiểu thuyết thứ bẩy ’’ xuất bản ở Hà Nội có đăng một truyện ngắn ’’Hoa Ti-gôn ’’ của ký gỉa Thanh Châu. Ðây là một truyện khá bi đát, trong đó mô tả truyện tình của một họa sĩ trẻ vừa ra trường tên Lê Chất. Trong một lần đạp xe đi tìm phong cảnh để vẽ ở một làng quê ven Hà Nội, ngẫu nhiên khi đi qua một căn biệt thự cổ Lê Chất nhìn thấy một cô gái rất đẹp, mặc áo ngắn tay bằng lụa đang đứng trên chiếc ghế cao níu lấy một cành hoa ti gôn mầu đỏ.

Sắc đẹp của người thiếu nữ nổi trội lên giữa giàn hoa ti gôn đỏ đã làm cho người hoạ sĩ mẩn mê đứng nhìn… Rồi từ hôm đó, ngày nào anh ta cũng tìm cách quanh quẩn gần căn biệt thự để được nhìn cô gái và ngược lại cô gái cũng thấy anh ta. Nhưng chỉ được vài lần, rồi không biết lý do gì người con gái không còn xuất hiện nữa.

Thời gian qua đi, mang thành công và danh vọng đến cho người hoạ sĩ, nhưng anh ta vẫn không bao giờ quên hình bóng người con gái đẹp dưới giàn hoa tigôn mầu đỏ mà anh ta đã gặp gỡ ngày còn nghèo khổ xa xưa .

Rồi ngẫu nhiên, 9 năm sau, trong lần đi tìm dề tài sáng tác ở miền Nam Trung Quốc, anh ta được mời tham dự buổi dạ vũ trong toà lãnh sự Pháp tại Vân Nam . Lê Chất gặp lại cô con gái ngày xưa, nhưng trong nhiều oái oăm, muộn màng. Chồng của cô gái là một viên chức cao cấp của toà lãnh sự, người chồng mà cô ta không hề yêu thương . Trong lần tái ngộ đó, họ khiêu vũ, tâm sự với nhau, và tiếp theo mối tình của họ được tiếp nối trong vụng trộm . Ðến một lần, họ dự tính bỏ lại đằng sau tất cả để tìm cách trốn đi Nhật sinh sống với nhau.

Nhưng đến giây phút cuối, người thiếu phụ gửi cho chàng họa sĩ một lá thư, kèm một chùm hoa tigôn mầu đỏ máu, nàng từ chối ra đi vì không đủ can đảm từ bỏ danh dự và tai tiếng của gia đình cũng như sự khinh bỉ của gia đình chồng.

Buồn đau vì ý định không thành, người họa sĩ vẫn ra đi Nhật bản một mình trước khi trở về Hà nội. Rồi, ngẫu nhiên, bốn năm sau, anh ta nhận được lá thư từ người chồng của cô gái báo tin nàng đã mất ! Lê Chất sang Vân Nam viếng mộ người xưa với một chùm dây hoa tigôn, loại hoa kỉ niệm mối tình của họ. Cũng từ đó cho đến suốt cuộc đời, cứ vào mua hoa tigôn nở, Lê Chất không bao giờ quên mua những chùm hoa tigôn để trang hoàng trong phòng làm việc như để tưởng nhớ đến người yêu xa xưa vắn số của mình .

Mấy ngày sau khi câu truyện ngắn trữ tình đó xuất hiện trên báo, có một thiếu phụ khỏang 20 tuổi, dáng dấp nhỏ bé, thùy mị, nét mặt u buồn mang đến toà báo, đưa tận tay người chủ bút một phong thư dán kín. Trong đó có một bài thơ rất hay với đề tựa ’’Hai sắc hoa tigôn’’ được ký tên tác giả là T.T.KH.

Bài thơ não lòng, lột tả được tất cả cái đau xót của người con gái đã phải xa người mình yêu, người đã cùng mình gắn bó thề ước dưới giàn hoa tigôn để đi lấy chồng, người mà mình không hề yêu.

Khi bài thơ ‘’ Hai sắc hoa tigôn ‘’ vừa cho lên mặt báo đã gây xôn xao trong giới yêu văn chương. Nhiều nhà phê bình đã không ngần ngại cho rằng đây là một kiệt tác. Trong không khí sôi động đó, toà báo lại nhận thêm được một bài thơ khác cùng tác gỉa, qua đường bưu điện với đề tựa ‘’ Bài thơ thứ nhất ‘’. Bài thơ này cũng với những câu thơ buồn đau đầy nước mắt, giải thích, mô tả kỹ lưỡng hơn về mối tình dang dở của cặp tình nhân gặp nhau rồi yêu nhau và cuối cùng không biết vì lý do nào đó người đàn ông rời xa, người đàn bà ở lại yêu kỷ niệm cho đến ngày lấy chồng :

Bài Thơ Thứ Nhất

Thuở trước hồn tôi phơi phới quá,
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương…
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại,
Em ái trao tôi một vết thương.

Tai ác ngờ đâu gió lạ qua,
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
Thổi tan âm điệu du dương trước
Và tiễn Người đi bến cát xạ

Ở lại vườn Thanh có một mình,
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh;
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,
Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành.

Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác,
— Gió hỡi ! Làm sao lạnh rất nhiều ?

Từ đấy không mong, không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm,
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ,
Người ấy ghi lòng : “Vẫn nhớ em !”

Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên,
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên ?

Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ !
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ…
Thì ai trông ngóng, chả nên chờ !

Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa :
— “Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ !”

Tôi run sợ viết; lặng im nghe
Tiếng lá thu khô siết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến.
Song đời nào dám ga<.p ai về !

Tuy thế, tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa, than ôi
Biết đâụ.. tôi: một tâm hồn héo,
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi !

Khi bài thơ thứ nhất được đưa lên báo, có người thắc mắc tại sao bài thơ Hai sắc hoa Tigôn lại được gửi đăng báo trước bài Thơ thứ nhất ?

Người ta cho rằng, tác gỉa đã làm bài Thơ thứ nhất, than khóc cho mối tình lỡ dở của mình từ lâu nhưng vì một lý do nào đó không gửi đăng báo. Nhưng sau đó, ngẫu nhiên đọc câu truyện ngắn Hoa Tigôn cuả ký gỉa Thanh Châu, cảm động với câu truyện và nhất là tìm thấy nhiều dữ kiện tương đồng với mối tình ngang trái của chính mình, tác gỉa đã làm bài thơ Hai sắc hoa Tigôn rồi gửi ngay cho toà báo. Chính vì thế bài thơ thứ nhất được phổ biến sau bài Hai sắc hoa tigôn

Sau khi bài thơ thứ nhất được đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bẩy, giới văn nghệ càng bàn tán nhiều hơn nữa. Bao nhiêu những tưởng tưộng,thêu dệt với những tình tiết lâm ly về hình dạng, thân thế và cả mối tình buồn đau lãng mạn của tác gỉa được đưa ra báo chí.

Vẫn trong cái không khí xao động, bàn tán lung tung vì 2 bài thơ vừa đăng báo đó, tạp chí ‘’Phụ nữ thời đàm’’ ở Hà nội lại nhận được bài thơ ‘’ Ðan áo cho chồng ‘’ của cùng tác gỉa qua bưu điện. Bài thơ này cũng vẫn với giọng điệu buồn đau, nhưng có vẻ than van, oán trách thân phận mình nhiều hơn. Nàng mô tả như bị tù tội trong cuộc sống với người chồng không yêu nhưng vẫn mong đợi bóng dáng người xưa :

Đan Áo Cho Chồng

“Chị ơi ! Nếu chị đã yêụ
Đã từng lỡ hát ít nhiều đau thương,
Đã xa hẳn quãng đường hương,
Đã đem lòng gởi gió sương mịt mùng.

Biết chăng chị ? Mỗi mùa đông,
Đáng thương những kẻ có chồng như em,
Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
Đan đi đan lại áo len cho chồng.

Như con chim hót trong lồng,
Hạt mưa nó rụng bên song bơ thờ.
Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
Than ôi ! Gió đã sang bờ ly tan…

Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
Như con chim nhốt trong lồng,
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao !

Ngoài trời mưa gió xôn xao,
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm ?
Ai đem lễ giáo giam em ?
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đờị..

Lòng em khổ lắm chị ơi !
Trong bao tủi cực với lời mỉa maị
Quang cảnh lạ, tháng năm dài,
Đêm đêm nghĩ tới ngày mai giật mình

Bài thơ đan áo cho chồng vừa ra mắt thì toà báo Tiểu thuyết thứ bẩy lại qua đường bưu điện nhận được bài thơ thứ tư với đề tựa : Bài thơ cuối cùng

Ðúng như đề tựa của nó, sau bài thơ này, làng thơ không bao giờ còn nhận được thêm bài nào nữa, TTKh hoàn toàn biến mất trên thi đàn! Cũng từ đó trong lịch sử văn thơ tiền chiến phải nhận lấy sự bí mật về một tác giả mà chỉ có vỏn vẹn 4 bài thơ nhưng đã tạo được chỗ đứng rất vững chãi trong nền văn học VN.

Bài Thơ Cuối Cùng

Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ, một lòng đaụ..
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời, có nói đâu !

Đã lỡ, thôi rồi ! chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy lụy từng khị
Trách ai mang cánh “ty-gôn” ấy,
Mà viết tình em, được ích gì ?

Chỉ có ba người đã đọc riêng,
Bài thơ “đan áo” của chồng em.
Bài thơ “đan áo” nay rao bán,
Cho khắp người đời thóc mách xem…

Là giết đời nhau đấy, biết không ?
….Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung,
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương : điệu cuối cùng !

Từ đây, anh hãy bán thơ anh,
Còn để yên tôi với một mình,
Những cánh hoa lòng, hừ ! đã ghét,
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.

Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơị..
Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp,
Đi nhớ người không muốn nhớ lời !

Tôi oán hờn anh, mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôị.. chết
Đêm hỡi ! Làm sao tối thế nầy ?

Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín,
Lại chính là anh ? anh của em !

Tôi biết làm sao được hỡi trời ?
Giận anh, không nỡ ! Nhớ không thôi !
Mưa buồn, mưa hắt, trong lòng ướt…
Sợ quá đi, anh… “có một người” !…

Bài thơ cuối cùng xuất hiện vào giữa năm 1938, trong giới văn chương vẫn không giảm sút những lời bàn tán, thêu dệt về thân thế và cuộc tình buồn bã của tác gỉa, đã thế nhiều nhà báo, nhà thơ có tên tuổi đương thời đã đưa ra những chứng cớ để cố nhận người thi sĩ tài năng đầy bí ẩn đó là người yêu của mình.

Khi bài thơ thứ nhất được đưa lên báo, có người thắc mắc tại sao bài thơ Hai sắc hoa Tigôn lại được gửi đăng báo trước bài Thơ thứ nhất ?

Người ta cho rằng, tác gỉa đã làm bài Thơ thứ nhất, than khóc cho mối tình lỡ dở của mình từ lâu nhưng vì một lý do nào đó không gửi đăng báo. Nhưng sau đó, ngẫu nhiên đọc câu truyện ngắn Hoa Tigôn cuả ký gỉa Thanh Châu, cảm động với câu truyện và nhất là tìm thấy nhiều dữ kiện tương đồng với mối tình ngang trái của chính mình, tác gỉa đã làm bài thơ Hai sắc hoa Tigôn rồi gửi ngay cho toà báo. Chính vì thế bài thơ thứ nhất được phổ biến sau bài Hai sắc hoa tigôn.

Sau khi bài thơ thứ nhất được đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bẩy, giới văn nghệ càng bàn tán nhiều hơn nữa. Bao nhiêu những tưởng tưộng,thêu dệt với những tình tiết lâm ly về hình dạng, thân thế và cả mối tình buồn đau lãng mạn của tác gỉa được đưa ra báo chí.

Vẫn trong cái không khí xao động, bàn tán lung tung vì 2 bài thơ vừa đăng báo đó, tạp chí ‘’Phụ nữ thời đàm’’ ở Hà nội lại nhận được bài thơ ‘’ Ðan áo cho chồng ‘’ của cùng tác gỉa qua bưu điện. Bài thơ này cũng vẫn với giọng điệu buồn đau, nhưng có vẻ than van, oán trách thân phận mình nhiều hơn. Nàng mô tả như bị tù tội trong cuộc sống với người chồng không yêu nhưng vẫn mong đợi bóng dáng người xưa.

Bài thơ đan áo cho chồng vừa ra mắt thì toà báo Tiểu thuyết thứ bẩy lại qua đường bưu điện nhận được bài thơ thứ tư với đề tựa : Bài thơ cuối cùng .

Ðúng như đề tựa của nó, sau bài thơ này, làng thơ không bao giờ còn nhận được thêm bài nào nữa, TTKh hoàn toàn biến mất trên thi đàn! Cũng từ đó trong lịch sử văn thơ tiền chiến phải nhận lấy sự bí mật về một tác giả mà chỉ có vỏn vẹn 4 bài thơ nhưng đã tạo được chỗ đứng rất vững trãi trong nền văn học VN.

Bài thơ cuối cùng xuất hiện vào giữa năm 1938, trong giới văn chương vẫn không giảm xút những lời bàn tán, thêu dệt về thân thế và cuộc tình buồn bã của tác gỉa, đã thế nhiều nhà báo, nhà thơ có tên tuổi đương thời đã đưa ra những chứng cớ để cố nhận người thi sĩ tài năng đầy bí ẩn đó là người yêu của mình.

2. Những dữ kiện lên quan đến thân thế của TTKH.

Như trên đã đề cập đến cái độc đáo của bài thơ kèm theo ý tứ của một mối tình buồn bã, lãng mạn… thêm vào đó sự bí mật về thân thế thi nhân càng làm cho người ta tò mò muốn biết về tác gỉa. Ðến nay đã gần 70 năm rồi, người ta vẫn phải nhận lấy những điều mù mờ về thân thế và cả những thêu dệt vô căn cứ về người nữ sĩ tài danh đó ! Sau đây là một vài sự kiện đã gây ra những xáo động dư luận trong giới thơ văn. Ðúng hay sai, tưởng tượng hay là một lối tìm nguồn thi hứng của những người làm văn nghệ…Ðến nay vẫn chỉ là những dấu hỏi mù mờ mà thôi!

a.Dư luận với ký gỉa Thanh Châu : Như phần trên đã viết, truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu trên báo Tiểu thuyết thứ bẩy đã là nguyên nhân xuất hiện những bài thơ diễm tình, lãng mạn bất tử của TTKh trong làng thơ tiền chiến.

Nếu xét những diễn tiến cũng như tâm trạng buồn đau của người con gái trong truyện ngắn Hoa Tigôn và trong 4 bài thơ của TTKh, nhất là bài Hai sắc hoa Tigôn, người ta thấy nội dung hai bài gần như giống hệt nhau. Cũng vẻ ngây thơ của người con gái thủa ban đầu gặp gỡ người yêu, cũng bóng dáng người nghệ sĩ làm cho nàng nhớ mãi không quên dưới giàn hoa Tigôn kỷ niệm :

Thủa trước hồn tôi phơi phới qúa

Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương

Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại

Em ái trao tôi một vết thương

hay :

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi

Thở dài trong lúc thấy tôi vui

Bảo rằng : hoa giống như tim vỡ

Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi .

Rồi những câu thơ tả người thiếu phụ luôn luôn tưởng nhớ đến cố nhân , phải miễn cưỡng kéo dài cuộc sống nhàm chán bên người chồng luống tuổi mà mình không yêu… Tất cả những dữ kiện đó đã lột tả gần như hòa hợp rất khắng khít với cốt truyện ngắn của Thanh Châu.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời

Ái ân lạnh lẽo của chồng tôi

Mà từng thu chết từng thu chết

Vẫn dấu trong tim bóng một người

Chính vì vậy ngay khi mấy bài thơ xuất hiện trên báo chí, ký gỉa Thanh Châu đã khẳng định với dư luận, TTKH chính là người con gái trong căn biệt thự ở ngoại ô Hà nội, là người yêu của ông.Sự xác định này đã quấy lên những xáo trộn nghì ngờ cũng có, tin tưởng cũng có trong làng thơ văn lúc bấy giờ.

Một buổi sáng vào năm 1937, có một phụ nữ xinh đẹp mang đến toà soạn Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội bốn bài thơ để xin đăng lên báo. Bốn bài thơ mang bút hiệu TTKH. Chủ bút toà soạn không để ý lắm, cũng không biết nàng là ai nhưng thấy bốn bài thơ khá hay nên cho đăng.

Sau đó trong giới thi nhân có một số người tự nhận TTKH là người tình của mình, mặc dù không ai biết rõ TTKH chính xác là ai. Trong số đó có thi sĩ Thâm Tâm tự nhận TTKH là Thanh Tâm Khánh và làm bài thơ để kể mối tình của mình và TTKH . Thi sĩ Nguyễn Bính cũng nhận TTKH là Trần thị Khánh và làm bài thơ Dòng dư lệ cũng kể lại kỷ niệm mối tình của mình là TTKH.

Từ đó về sau người phụ nữ xinh đẹp ấy không bao giờ xuất hiện nữa và mãi cho đến bây giờ không ai biết người mang bút hiệu TTKH thật là ai. Nàng chỉ còn lưu lại bốn bài thơ kễ lại mối tình thơ ngây, trong trắng của mình và người yêu là một thi sĩ, và những ngày buồn bã, tẻ nhạt bên người chồng luống tuôi.

b: Một câu chuyện khác về TTKH

1976…
Có một trung niên lặn lội từ Hà Nội vào Sài Gòn. Ðặt chân đến “Hòn ngọc viễn đông,” người người đông như kiến, đường xá nhiều và rộng thênh thang; nhưng xe cộ thì hiếm, phương tiện di chuyển ngoài xe đạp, thì xe buýt đóng vai trò quan trọng. Người người đi xe buýt, xe chật chội như nêm cối. Hành khách chen chúc nhau ở bến, trạm xe; lên xe được phải coi như là một may mắn. Chàng trung niên phải mất nhiều thời gian nới leo lên xe buýt được, người được ngồi cũng khổ vì người đứng chen lấn, người đứng càng khổ hơn vì bị người đứng khác chen lấn để nắm một khoen hoặc cây sắt dọc mà vịn cho khỏi ngã. Ðôi mắt chàng dáo dác tìm nàng, người thơ Hai sắc hoa ti-gôn của 42 năm xa cách. Từ 1934, nàng lập gia đình ở vườn Thanh cho đến 1976 chàng mong gặp nàng ở Miền Nam. Ngày hôm nay, trên tuyến đường xe buýt này, chàng chưa gặp nàng; có thể ngày mai trên tuyến đường xe buýt khác, chàng có thể gặp nàng. Sự hy vọng khiến chàng vững niềm tin kiên nhẫn. Chàng không thể nản lòng khi chưa gặp cố nhân. Nhiều ngày như thế, đêm về chàng ngả lưng chợp mắt, trông chờ sáng mai, lại lên đường trên một tuyến xe buýt khác. Chàng đưa mắt nhìn khách ngồi, khách đứng, rồi khách đứng lại khách ngồi; mong tìm bóng dáng cô nương. Chàng vừa tìm, vừa hỏi thăm tin tức qua người đồng hương xứ Thanh, chắc chắn không nay thì mai, chàng cũng biết được. Có người ở Thanh Hóa đã cho chàng hay, bà Lê Ngọc Chấn có người em gái tên Trần Thị Anh Minh, vợ thi sĩ Hà Thượng Nhân, nhà hiện ở đường Trương Minh Ký, số nhà 333…cứ dò hỏi sẽ biết được nhà. Cuối cùng căn nhà hai tầng kiến trúc như lối xây cất cư xá, người ta chỉ cho chàng 333/14/8… đường Trương Minh Ký (đường Lê Văn Sĩ quận Tân Bình bây giờ).

Khách trung niên gõ cổng. Cổng sắt, tường cao, không chuông, nhưng có người ra mở. Thấy khách lạ, người trong nhà hỏi: “Bác muốn kiếm ai?” – Cho tôi gặp bà Anh Minh, vợ ông Hà Thượng Nhân – “Ông là ai?”, – Tôi là khách đồng hương, quê Thanh Hóa, xin gặp bà Anh Minh. Tôi ở Hà Nội vào…

Ðó là những câu hỏi thăm nhà của khách trung niên và câu đáp của người nhà bà Anh Minh được kể lại rành rẽ.

Khi bà Anh Minh ra gặp khách lạ, ông giới thiệu tên và nói thẳng cho cô em vợ “hờ”, ông cần gặp T.T.KH
– Ở đây không có ai là T.T.KH. Ðây là nhà của ông Hà Thượng Nhân, làm thơ, quê Thanh Hóa, nhưng nhà tôi mới lên đường trình diện học tập cải tạo.
– Vậy bà cho tôi hỏi bà T.T.V.C, tôi muốn gặp bà và tôi chỉ đi khỏi đây khi gặp được bà ấy.
– Mời ông vào nhà chơi…

Bà Anh Minh sau khi suy nghĩ, đành phải mời ông khách lạ ngồi chờ để bà đi tìm bà chị T.T.V.C. Em gái bà vẫn nhắc lại lời của người khách trung niên kia, sẽ không đi đâu hết, nếu không gặp được người cần gặp. Bà không thể tiếp chàng ở nhà được… Chồng đi học tập chưa về, các con đã trưởng thành, có người đi xa, có người vẫn ở cạnh bà hôm sớm. Bà khổ tâm vô cùng, chẳng nhẽ không đi. Cô em gái tần ngần đứng đợi…

Thôi thì một liều ba bảy cũng liều, bà vội vàng cùng em gái đi bộ trên đường Nguyễn Minh Chiếu qua Thoại Ngọc Hầu để đến Trương Minh Ký. Ngày xa xưa, cũng chiều thu, bà đã khóc mối tình của chính mình:

…Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì?
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: “màu hoa trắng”
Là chút lòng trong chẳng biến suy…”

Ra khỏi cổng nhà, bà giẫm phải cánh hoa ti-gôn mọc bên tường, hoa một mùa rụng? Một mùa nở? Nhiều cánh đủ màu mọc lên tường rụng trên mặt đường. Bà hẳn không quên:
…Trách ai mang cánh “ti-gôn” ấy…
Mà viết tình em được ích gì?

Ðến bây giờ vẫn còn đúng với tâm trạng:
…Ðẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Ðã bọc hao tàn giấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chẳng nên chờ…

Hai chị em đã đi hết đường Nguyễn Minh Chiếu, qua Thoại Ngọc Hầu, đến ngã tư, rẽ trái sang Trương Minh Ký, Buổi nay cũng là một chiều thu Saigon. lòng tê tái lòng gặp chàng – như lòng tê tái vào một chiều thu xưa, gió lạnh lẽo vì bà đã lấy chồng, nhớ đến người ấy… đứng ngóng đò:

…Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa rụng lại chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò…

Giờ này đây, người khách năm xưa ngóng đò đang ngóng chờ bà, bà đã biết và biết rất rõ; cả chàng cũng biết rất rõ:

Nếu biết rằng tôi đã có chồng
Trời ơi! người ấy co buồn không?
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng…

Bắt đầu rẽ vào hẻm 333 Trương Minh Ký, tim bà đập liên hồi, bà nhớ đến chồng bà lên đường trình diện học tập cải tạo. Bà cũng nhớ đến những ngày phu quân mê một nữ thư ký ở văn phòng luật sư, nơi ông làm việc. Bà đau khổ về chuyện này không ít, song không dám kêu than, buông lời trách móc, nói làm chi đến ghen tuông, Bởi phu quân bà đã biết rõ, rất rõ vợ mình.

…Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.

… Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người…

Bà sợ con đường này, những con đường khác, nhất là con đường mang tên Trương Minh Ký (Thuộc tỉnh Gia Ðịnh) sao nó quá ngắn. Bà mong gặp, lại mong không nên gặp – nhưng bước chân hai người vẫn bước tới. Bà nhớ đến nội dung một đoạn truyện Hoa ti-gôn…

…”Họa sĩ được tin, đem những dây hoa “ti-gôn” thứ hoa giống hình quả tim vỡ mà trước kia nàng hái ở vườn nhà…”

Chính truyện Hoa ti-gôn khiến bà buồn khổ khi ở vườn Thanh, buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết – bà khóc bằng chính dòng lệ nóng chảy trên gò má; bà khóc nhớ đến khi quyết định bút hiệu T.T.KH ký dưới bài thơ được gửi đăng báo. Bài thơ thứ nhất, Hai sắc hoa ti-gôn, rồi bài thơ cuối cùng… T.T.KH xưa… Chao ơi! biết bao văn nhân thi sĩ dệt thảo thành huyền thoại, nào là THÂM TÂM KHÁNH, nào là … chính chàng cũng làm lạc hướng qua THÁI THỊ KHƯƠNG, TÀO THỊ KHÊ hay là một cái tên nào khác. Không một ai biết được bút hiệu T.T.KH khi thành hình kể cả chàng, chỉ biết sau khi bài thơ có bút hiệu ấy, ký dưới những bài thơ. Bà hình dung lại những giây phút tại sao lại đặt là T.T.KH.

– T chữ thứ nhất là: TRẦN
– T chứ thứ hai là: THANH
– KH hai chữ sau cùng la: KHÓC.

T.T.KH cả hai cùng khóc cho mối tình chân ngoài đời – mối tình thơ trong dòng thơ lệ.
– Sắp đến rồi chị!
Tiếng cô em nhắc sắp đến nhà cô; nghĩa là sắp gặp chàng. Trống liên hồi đập trong trái tim hồng, như cách đây bốn mươi năm ngoài. Lại nhớ đến thơ mình xưa kia, có câu:

…tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi!
Biết đâu, tôi một tâm hồn héo.
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!

– Cọc cọc cọc…tiếng gõ ngoài cổng…rồi tiếng của cô em: “..Mở cửa, mẹ đây…”.
Cổng sắt mở nửa cánh, phòng khách phía trước, phải qua một cái sân xi măng. Trên ghế salon bày một cách tùy tiện, một khách trung niên, người dỏng cao, mảnh khảnh, lưng hơi gù, đôi mắt sáng, quần áo chỉnh tề…
Thế giới ấy chỉ còn hai người, họ không cần biết đến có ai xung quanh. Chàng chạy tới, giơ hai tay chào đón… …….Nàng xúc động, run run, mi mắt nằng nặng, thế là dòng nước mắt tuôn rồi. Thân hình nàng ngả về phía trước, lọt vào vòng tay khách trung niên.

Lời thơ Hoa ti-gôn – T.T.KH phương xa đến thật gần: …Tái phùng, trúc cỗi, mai gầy
Lệ thu dàn dụa hương ngây mủi lòng
Bài thơ ký tắt não nùng
Bao dòng tâm sự ngàn trùng quan san…

Sau đó người khách trung niên nói với cố nhân:
“…Khi anh về Hà Nội, biết rõ được chồng em có chức vụ quan trọng như thế, đầy quyền uy như thế; anh đành mất em thực rồi…”.
Người khách trung niên ấy chính là nhà văn Thanh Châu – tác giả của truyện ngắn Hoa ti-gôn ngày trước. Sau hơn bốn mươi năm xa cách, họ gặp lại nhau trong ngậm ngùi. Cả hai người đều đã già và cằn cỗi vì tháng ngày? hay vì thương nhớ lệ tình cũ. Nhưng chỉ có tình yêu của họ là vĩnh cửu, là trẻ trung và trong sáng. Một cuộc tình mà cả hai người đều vì nhau mà im lặng, im lặng trong sự đau khổ, im lặng trong sự hy sinh cao thượng. Ngày hôm nay gặp lại nhau cả hai người đã hai thứ tóc, con cái đã lớn, hỏi ai lại không khỏi ngậm ngùi.

(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Nhà Thơ: Tế Hanh: Quê Hương – Anh Đến Với Em Là Lẽ Tất Nhiên – Em Đến Với Anh – Đắng Cay – Ao Ước.

Open in new window
Tế Hanh tên khai sinh là Trần Tế Hanh, sinh năm 1921 (Tân Dậu) tại làng chài vên biển tỉnh Quảng Ngãi. Ông có nhiều tác phẩm, tiêu biểu như: Hoa niên – tập thơ 1945, Gửi miền Bắc (1955), Tiếng sóng (1960), Hai nửa yêu thương (1963), Khúc ca mới (1966)… Tác phẩm nổi tiếng nhất được nhiều bạn đọc biết đến, đó là bài Quê hương – rút trong tập Nghẹn Ngào (1939), sau được in lại trong tập Hoa niên (xuất bản 1945).

Quê Hương

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Ngày hôm nay, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng

Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Anh Đến Với Em Là Lẽ Tất Nhiên

Anh đến với em là lẽ tất nhiên
Như con sông trở về với biển
Như qua mùa đông mùa xuân lại đến
Như sau cơn mưa là lúc mặt trời lên

Anh đến với em là lẽ tất nhiên
Như cái hoa đến ngày kết quả
Như con chim buổi chiều quay về tổ
Như máu trong người trở lại tim

Anh đến với em là lẽ tất nhiên
Như quyển truyện phải đến hồi kết thúc
Như cây kim địa bàn quay về hướng bắc
Cuộc đời anh hướng đến cuộc đời em
Anh đến với em là lẽ tất nhiên.

Em Đến Với Anh

Em đến với anh như tia nắng ấm
Giữa những ngày mây phủ bốn phương trời
Cơn gió lạnh mỗi giờ mỗi thấm
Nắng lên đi đẹp quá nắng ơi!

Em đến với anh như cơn gió mát
Cho một người ở giữa quãng đường xa
Chân đã mỏi mà cổ thì đói khát
Cơn gió về như nước xối chan hoà

Em đến với anh như thêm nguồn an ủi
Đau khổ thế nào vẫn giữ tấm lòng thơ
Đêm sắp hết và bình minh đang đến
Hạnh phúc không xa hãy đợi chờ

Em đến với anh thêm một lần thử thách
Tâm hồn anh còn rung cảm hay không
Khi quanh ta toàn những người thiết thực
Thấy bó rau xanh không thấy đóa hoa hồng

Con vịt trong truyện Andersen gãy cánh
Trở thành thiên nga bay khắp trời xanh
Anh ra khỏi nỗi buồn tật bệnh
Chào đón mùa xuân: em đến với anh.

Đắng Cay

Vui không dám vui nhiều,
Miệng cười như thể mếu!
Lo lắng nỗi đìu hiu
Vấn vương người yểu điệu.

Đau buồn che dấu lệ;
Ta có thở than đâu!
Em xinh tươi như thế
Ai nỡ sẻ chia sầu.

Một lời em nói vội,
Một bước em đi nhanh,
Ta tưởng chừng thế giới
Sụp đổ vỡ tan tành.

Quen biết, vẫn cô đơn,
Lứa đôi thêm tẻ lạnh;
Ta ôm chịu tủi hờn,
Chết dần lòng kiêu hãnh.

Bấy lâu ta vẫn ngỡ
Đi kiếm chút êm đềm
Nay lòng tan nát vỡ,
Đau đớn quá đi em!

Ao Ước

Anh là kẻ say mê, nhưng nhút nhát;
Không hiểu giùm, em lại nỡ cho anh
Là không yêu, là một kẻ vô tình.
Anh tức quá, đem lòng ao ước tệ:

Nếu em chết! Chắc là anh có thể
Tỏ mối tình lặng lẽ quá sâu thâm:
Anh đến nơi em nghỉ giấc ngàn năm
Ngồi điên dại sầu như cây liễu rủ

Anh không uống, anh không ăn, không ngủ,
Anh khóc than, than khóc đến bao giờ
Nước mắt anh lầy lội cả nấm mồ
Nhỏ từng giọt xuống thân em lạnh lẽo.

Rồi anh chết, anh chết sầu, chết héo;
Linh hồn anh thất thểu dỗi hồn em.
Và ở đâu kia, ở cõi đời đêm
Chắc em chẳng nghi ngờ tình anh nữa…

Tế Hanh
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Nhà Thơ: Nguyễn Khuyến: Thu Điếu – Hội Tây – Kiều Bán Mình – Tặng Đốc Hà Nam – Tổng Vịnh Kiều – Tự Trào – Thu Vịnh.

Open in new window
Nguyễn Khuyến lúc nhỏ tên là Thắng, sinh năm Ất Mùi (1835) ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Thủa nhỏ chăm học. Năm 17 tuổi, ông đi thi cùng một khóa với cha, nhưng bị hỏng. Sau đó cha mất, nhà nghèo, Nguyễn Khuyến phải đi dạy học để kiếm sống và nuôi mẹ. Ông nghè Vũ Văn Lí, học trò cũ của ông bác Nguyễn Khuyến thương tình cảnh của Nguyễn Khuyến, đem về nuôi cho ăn học tiếp.

Năm 1864, Nguyễn Khuyến thi hương đậu giải nguyên (đậu đầu); năm sau thi hội bị hỏng, ông vào kinh theo học trường Quốc Tử Giám. Năm 1871, ông thi lại lần nữa và đỗ liền cả Hội nguyên và Đình nguyên. Nguyễn Khuyến đậu đầu cả ba kỳ nên người ta thường gọi ông là ông Tam nguyên hay Tam nguyên Yên Đỗ.
Ông Tam nguyên Yên Đỗ đã từng làm ở nội các Huế, rồi làm Đốc học Thanh Hóa, Án sát Nghệ An, rồi Biện lí bộ Hộ,… Thời gian Nguyễn Khuyến ra làm quan, Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ và đang đánh ra miền Bắc.Cuối năm 1883, Nguyễn Khuyến được cử làm quyền Tổng đốc Sơn Tây thay cho Tổng đốc Nguyễn Đình Nhuận đã bỏ Sơn Tây lên Hưng Hóa chống thực dân Pháp, nhưng Nguyễn Khuyến từ chốị Sau đó Hoàng Cao Khải Kinh lược sứ Bắc Kì mời ông đến nhà dạy học, rồi Lê Hoan – Tuần phủ Hưng Yên tổ chức thu vịnh Kiều cũng mời ông làm giám khảọ Hoàng Cao Khải, Lê Hoan là những kẻ cộng tác với thực dân Pháp. Từ chối lời mời của họ ông biết sẽ sinh chuyện lôi thôi nên đành miễn cưỡng nhận lời.Nguyễn Khuyến làm quan tất cả hơn 10 năm, rồi từ quan về nhà. Phần lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là ở thôn quê.Ông mất năm 1909, thọ 75 tuổi.

THU ĐIẾU

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Hội Tây

Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo:
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

Kiều bán mình

Thằng bán tơ kia giở giói ra,
Làm cho bận đến cụ Viên già.
Muốn êm phải biện ba trăm lạng,
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa.
Nổi tiếng mượn màu son phấn mụ,
Đem thân chuộc lấy tội tình cha.
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ ?
Đời trước làm quan cũng thế a ?

Tặng đốc Hà Nam

Ai rằng ông dại với ông điên,
Ông dại sao ông biết lấy tiền?
Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp,
Khoét thằng mặt trắng lấy tam nguyên
Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ,
Phép nước xin chừa móng lợn đen
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt,
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen.

Tổng vịnh Kiều

Kiều nhi giấc mộng khéo như cười,
Tỉnh dậy xuân xanh quá nửa rồi,
Số kiếp bởi đâu mà lận đận ?
Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi!
Cành hoa vườn thúy duyên còn bén,
Giọt nước sông Tiền nợ chửa xuôi.
Chẳng trách chàng Kim đeo đẳng mãi,
Khăng khăng vớt lấy một phần đuôi.

Tự trào

Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy, chẳng béo chỉ làng nhàng,
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.

Thu vịnh

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Nguyễn Khuyến
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Nhà Thơ: Tố Hữu: Từ Ấy – Tiếng Hát Sông Hương – Tiếng Chổi Tre.

Nhà Thơ Tố Hữu

Open in new window– Sinh năm 1920 tại làng Phù Lai, gần cố đô Huế, Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành, làm thơ khá sớm. Mười tám tuổi, ông có thơ đăng.
Năm 1946, tập thơ đầu tay Thơ ra đời (sau đổi là Từ ấy) tập hợp các bài thơ viết từ 1937 đến 1946, chia làm ba phần “Máu lửa” (27 bài), “Xiềng xích” (30 bài) và “Giải phóng” (14 bài)…

Từ ấy

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…

Tiếng hát sông Hương

Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương Giang

Trăng lên trăng đứng trăng tàn
Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng
Thuyền em rách nát
Mà em chưa chồng
Em đi với chiếc thuyền không
Khi mô vô bến rời dòng dâm ô!

Trời ôi, em biết khi mô
Thân em hết nhục giày vò năm canh
Tình ôi gian dối là tình
Thuyền em rách nát còn lành được không?

– Răng không, cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Trong như nước suối ban mai giữa rừng.
Ngày mai gió mới ngàn phương
Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân
Ngày mai trong nắng trắng ngần
Cô thôi sống kiếp đày thân giang hồ
Ngày mai bao lớp đời dơ
Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay
Cô ơi tháng rộng ngày dài
Mỏ lòng ra đón ngày mai huy hoàng

Trên dòng Hương Giang…

Tiếng chổi tre

Những đêm hè,
Khi ve ve
Đã ngủ!
Tôi lắng nghe,
Trên đường
Trần Phú
Tiếng chổi tre,
Xao xác
Hàng me
Tiếng chổi tre,
Đêm hè
Quét rác.

Những đêm đông
Khi cơn giông
Vừa tắt
Tôi đứng trông
Trên đường
Lặng ngắt
Chị lao công
Như sắt
Như đồng
Chị lao công
Đêm đông
Quét rác

Sáng mai ra
Gánh hàng hoa
Xuống chợ
Hoa Ngọc Hà
Trên đường
Rực nở
Hương bay xa
Thơm mát
Đường ta
Nhớ nghe hoa
Người quét
Rác đêm qua.

Tiếng chổi tre
Chị quét
Những đêm hè
Đêm đông
Gió rét
Tiếng chổi tre
Sớm tối
Đi về
Giữ sạch lề
Đẹp lối
Em nghe.

Tố Hữu
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Nhà Thơ: Hoàng Cầm: Lá Diêu Bông

Open in new window– Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 12 tháng giêng năm Nhâm Tuất (tứ ngày 22/2/1922) tại Bắc Giang. Quê gốc của ông ở Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh, quê hương nổi tiếng cuả Quan họ Kinh Bắc. Yêu thơ văn từ thuở học trò, lớn lên Hoàng Cầm không thích nghề giáo viên nên dấn thân vào con đường kịch nghệ và thi ca

Hoàng Cầm được thừa hưởng cái gen nghệ sĩ của mẹ cha, được hướng dẫn và truyền cái men say thơ, văn, nhạc, họa, người và cảnh vùng Kinh Bắc 18 tuổi đỗ tú tài toàn phần và 20 tuổi (năm 1942) viết liền hai vở kịch thơ lịch sử: Hận Nam Quan – Kiều Loan. Người đọc kịch bản văn học ngày nay thán phục một tâm hồn thi nhân chín sớm, một tài năng sân khấu bừng sáng khi còn rất trẻ.
Diễn viên Tuyết Khanh đóng vai Kiều Loan trong Hận Nam Quan cũng chính là mối tình thơ mộng cho ra tác phẩm bằng xương bằng thịt: Kiều Loan. Năm 1954.
Người bạn đời thứ hai là Lê Hoàng Yến .Sau khi thụ bản án Nhân Văn Giai Phẩm, Hoàng Cầm về chung sống cùng người phối ngẫu, mở quán nước ở 43 Lý Quốc Sư, Hà nội, chung sống độ nhật qua ngàỵ…

Lá Diêu Bông

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày Em tìm thấy Lá
Chị chau mày
Đâu phải Lá Diêu bông
Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy Lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy Lá
Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc Lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời…
…ới Diêu bông…!

Hoàng Cầm
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,