RSS

Category Archives: Truyện ngắn hay

Cá Hóa Rồng – Đôi nét về Nhà văn Hoàng Minh Tường và "Thời của thánh thần"

CÁ HÓA RỒNG
 Là một tiến sĩ nông nghiệp, nhưng Y phải tự thừa nhận rằng Y chẳng biết gì về chuyện đất đai. Ngay như căn nhà mà gia đình Y đang ở, nếu ngày ấy vợ Y không quyết, thì cho đến bây giờ Y vẫn là kẻ vô gia cư.

Câu chuyện xa lắc rồi, từ hơn mười năm trước. Ngày ấy, Y mới tu nghiệp từ Liên Xô về, cơ quan cho ở nhờ trong phòng làm việc. Ban ngày là nơi công sở, bếp điện nồi xoong cất dưới gầm tủ, chiều tối lôi ra nấu nướng, kê hai chiếc bàn lại, vừa làm bàn ăn, vừa làm giường ngủ.

Khổ thế, nhưng về làng Y vẫn mũ áo xênh xang, đeo cái mác Kandidat (Phó tiến sĩ), chuyên viên Viện X, oai lắm. Cho đến một ngày kia vợ Y, cô giáo Trâm dạy mẫu giáo trường làng, lên chơi, biết tỏng cái ổ con chuồn chuồn, liền ra một chỉ thị:

– Phó tiến sĩ mà sống úi xùi như anh thì thà về nhà cày ruộng. Phải dồn tiền mua một miếng đất, dựng một gian lên. Nếu cần, em xin nghỉ dạy, lên chạy chợ để chăm sóc cho anh làm khoa học.

Vợ Y mở hầu bao, chìa ra tám cái nhẫn vàng. Thì ra bao nhiêu bàn là, nồi hầm, dây mai-xo Y gửi về mấy năm trước, Trâm chuyển thành vàng hết, cất đi.

Cái thửa ruộng một sào rau muống mà vợ chồng Y đang ở đây, hồi ấy mua hết có sáu cái nhẫn vàng, tức một cây hai. Bây giờ bỏ rẻ cũng phải năm tỷ, hơn sáu trăm cây vàng, tương đương với ba nghìn chiếc nhẫn.

Giờ thì Y có máu mặt rồi. Nhờ sự đổi mới của cơ chế, sau một đêm ngủ dậy, Y được chuyển đổi từ học vị phó tiến sĩ thành tiến sĩ. Tiếp đó, Y lại được phong hàm phó giáo sư. Có chức quyền, có danh tất sẽ có lợi. Hàng loạt các dự án, đề tài khoa học được dành cho Y. Y tham gia hội đồng xét duyệt này, hội đồng chấm thi nọ, rồi hướng dẫn làm luận án thạc sĩ, phản biện luận án tiến sĩ… Tiền phong bì nhiều gấp trăm lần tiền lương. Ấy vậy mà so với lợi nhuận buôn địa ốc của Trâm, thì thu nhập của Y cũng chỉ như cái móng tay. Một năm chỉ cần Trâm trúng vài ba phi vụ, cũng lãi vài trăm triệu. Có tiền, vợ chồng Y đập cái nhà cấp bốn để xây một biệt thự ba tầng, cứ nhẹ tênh như người ta làm một cái chuồng gà.

Buồn một nỗi, cái biệt thự của vợ chồng Y lại nằm khuất trong ngách. Từ đường ô-tô phải đi qua một ngõ nhỏ, nơi có bụi tre chắn ngang, rồi men theo bờ ao hình thước thợ vào nhà. Chủ nhân của chiếc ao và hơn mười nghìn mét vuông đất ngay sát nhà Y là Mít, làm nghề mổ thịt cầy ở chợ Xanh, có tính cách pha trộn giữa Tê-nac-đi-ê của Vích-to Huy-gô và Chí Phèo của Nam Cao.

Nếu muốn tìm lại hình ảnh của một nông thôn ngoại ô những năm 60 – 70 của thế kỷ trước, thì chẳng phải đi đâu xa, cứ lên sân thượng ngôi biệt thự nhà Y nhìn xuống. Trong khi tứ bề nhà cao tầng mọc lên, thì riêng nhà Mít vẫn giữ nguyên trạng từ gần trăm năm nay. Một nhà ngói cấp bốn rêu mốc, thấp tè, nối với nhà bếp, chuồng lợn và nhà xí, nằm giữa một vườn ổi, nhãn, dừa, tre pheo um tùm. Chao ôi, cái ao bèo của Mít sao giống với cái ao bèo ở quê nhà Y quá chừng. Một mầu nước nâu đen, tù đọng, những đám khoai nước mọc loi thoi quanh bờ, một cây sung già ngả sát cầu ao. Những ngày mưa, những đêm trở trời, từ cái ao bèo rộn lên bản hòa tấu của ếch nhái, côn trùng.

Người quanh năm khai thác nguồn lợi từ cái ao bèo là bà cụ Ổi, mẹ Mít. Không ai đoán nổi bà cụ bao nhiêu tuổi, chỉ thấy mỗi năm cái lưng bà cụ thêm còng xuống, và gương mặt nhăn nheo như quả hồng xiêm héo, sạm một mầu đất. Hình như vợ chồng Mít phân công bà cụ chuyên trách việc nuôi lợn. Lúc nào cũng thấy bà cụ Ổi băm bèo, nấu cám lợn. Từ cái chuồng lợn xiêu vẹo, mùi phân tỏa đi khắp xóm. Khốn khổ cho những cái mũi của vợ con Y. Ngửi mùi phân lợn kinh niên, thành quen, đến nỗi nhiều khi ngồi vào bàn ăn mà không thể phân biệt được mùi vị của các món.

Vợ Y từng nhiều lần lân la sang nói chuyện với bà cụ Ổi:

– Cụ ơi, đất đang có giá. Mỗi mét vuông nhà ta cũng hơn hai chục triệu, sao cụ không bảo bác Mít bán cái ao đi để xây cho cụ cái nhà tử tế mà ở?

– Không được đâu. Nhiều người đến hỏi mua, nhưng thằng bố Mít nó không nghe. Nếu bán, đã bán rồi. – Bà cụ thì thào vào tai Trâm – Nó sợ phải chia cho các em nó. Tôi có hai trai, bốn gái. Các cô Chanh, Na, Bưởi, Hồng đều đi lấy chồng, có nhà trên phố. Thằng Sung, em thằng Mít, ở nhờ nhà vợ, chật chội lắm. Tôi bảo bố Mít chia thửa đất này thành tám phần, bán đi, nó ba phần còn các em mỗi đứa một phần, mà nó không nghe. Nó muốn chiếm cả cô ạ. Tôi khổ lắm. Ngồi trên đống vàng mà sống như kẻ ăn mày. Năm đứa em thằng Mít từ mặt anh, không thèm nhìn…

Hóa ra tất cả là do cái tính tham của Mít. Y bỗng nghĩ tới câu chuyện cá chép hóa rồng. Bao nhiêu lần đi thi vượt Vũ Môn, cá chép đều không thể trở thành rồng. Cá đi gặp Tiên, Tiên bảo: “Trong miệng ngươi đang ngậm viên ngọc. Phải nhả viên ngọc ra cho mọi người thì ngươi mới vượt được Vũ Môn, lúc đó ắt hóa thành rồng”. Gã đồ tể hàng xóm của Y muốn giữ viên ngọc, tức là hơn nghìn mét vuông đất, làm của riêng mình. Ðầu óc gã làm sao hiểu được câu chuyện cá chép hóa rồng. Y bỗng thấy thương vợ. Chục năm trước hí hửng mua được sào ruộng rau muống với giá rẻ, ai ngờ ngôi biệt thự hôm nay bị đút nút tận cùng trong ngõ ngách.

Ngược hẳn với sự thương miệng, thương môi của Y, Trâm lẳng lặng hành động để cải tạo hoàn cảnh. Chị đi vận động bảy gia đình chung quanh nhất trí góp tiền mua đất bụi tre và rẻo ao nhà Mít, quyết mở một con đường cho ô-tô con vào từng nhà. Tiếp đó, Trâm lần tìm đến từng gia đình anh Sung, và các chị Chanh, Bưởi, Na, Hồng xin từng chữ ký, tất nhiên có cả vân tay điểm chỉ của bà cụ Ổi đồng ý cho các con bán rẻo đất cho xóm làm lối đi, theo giá thị trường.

Sự việc tưởng êm xuôi, nào ngờ mọi người đã chọc vào tổ ong vò vẽ. Mít phát điên lên, cầm thanh mã tấu, phanh ngực, để hở chòm lông xoăn tít, đứng bên bờ ao réo tên chửi từng nhà trong xóm, rồi gã chửi cả bà cụ Ổi và năm đứa em ruột. Mít cắm phập thanh mã tấu xuống đất:

– Thằng nào, con nào muốn xắn một miếng đất nhà ông thì vào đây. Ông băm lẫn với bèo để nuôi lợn tăng trọng.

Từ hôm ấy, Y như người mất hồn. Y bàn với vợ:

– Ta rao bán ngôi nhà thôi em ạ. Kiếm ngôi nhà nào nhỏ hơn, nhưng ở ngoài mặt phố, cạnh người tử tế. Chui vào đây ở cạnh gã Chí Phèo, suốt đời vợ chồng con cái không mở mặt lên được.

Trâm đồng ý với Y. Ngày hôm sau họ rao bán nhà trên tờ “Thị trường bất động sản”.

Suốt cả tuần sau, không thấy bà cụ Ổi vớt bèo nấu cám lợn. Trâm mua gói bánh, hộp sữa, dúi vào tay Y và bảo:

– Tay Mít nó nhốt bà cụ rồi. Anh sang thăm bà cụ một tí. Có khi mà ông con trai đang muốn bỏ đói cho mẹ chết cũng nên…

Chần chừ mãi, nhưng rồi Y cũng nghe theo vợ, rình lúc Mít đi chợ, sang thăm bà cụ Ổi. Quả nhiên, đã hơn mười ngày nay, vợ chồng Mít chỉ cho bà cụ ăn mỗi ngày một bữa cháo. Bà cụ Ổi nằm bệt trên giường, đói lả đến mức Y phải ghé sát tai mới nghe tiếng được, tiếng mất.

– Thằng Mít nó không cho ăn… Nó không báo cho các em nó biết… Ông làm ơn nhắn thằng Sung, con Chanh, con Bưởi…

Y lật đật bước qua cái cổng sắt, chạy về bảo vợ đi báo tin cho các con bà cụ Ổi.

Nhưng không kịp. Ðến chiều tối thì bà cụ tắt thở.

Ðám ma bà cụ Ổi bị tắc nghẽn hàng tiếng đồng hồ chỉ vì cái bụi tre chắn ở cổng và sự lăn lóc gào khóc của vợ chồng con cái Mít. Giữ đúng phong tục truyền thống, Mít mặc áo xô gai, thắt dây chuối ngang bụng, đầu đội nùn rơm, chân đất, gậy tre, đi giật lùi trước quan tài mẹ. Chưa bao giờ thấy ai khóc mẹ thống thiết như gã. Chốc chốc, gã lại rống lên:

– Ối mẹ ơi! Vợ chồng con nghèo quá. Con chỉ ân hận chưa xây được cái nhà tử tế cho mẹ ở…

Mấy người láng giềng bấm nhau, lắc đầu, ngao ngán:

– Ðạo đức giả đến thế là cùng. Bà cụ chết rồi. Giờ thì mình ông ta làm chủ cả nghìn mét vuông đất, giá tới mấy nghìn cây vàng.

Nghĩ đến câu chuyện cá chép hóa rồng, Y thấy trong trường hợp “hóa rồng” của Mít, ngọc không phải là đất, mà chính là bà cụ Ổi. Chỉ có điều, con cá chép tham lam muốn hóa rồng phải nhả viên ngọc cho mọi người, còn Mít thì lại tìm cách cho “viên ngọc” vào trong quan tài, chôn xuống đất, rồi gã nghiễm nhiên sở hữu toàn bộ gia tài, trở thành tỷ phú.

Người khách đầu tiên đến hỏi mua nhà, chỉ trả bằng bảy mươi phần trăm giá Trâm rao bán, Y cũng bảo vợ bán ngay.

– Tránh xa cái thằng Mít bất nhân này, dẫu ngày mai nó gọi cho không bụi tre và rẻo đất bờ ao để mở đường đón ô-tô vào biệt thự nhà mình.

Trâm nhìn chồng, mỉm cười, tán đồng. Lần đầu tiên chị thấy Y đáng tầm một tiến sĩ chuyên nghiên cứu về đất đai.

Hoàng Minh Tường

Tìm hiểu thêm:

NHÀ VĂN HOÀNG MINH TƯỜNG

Open in new windowTôi muốn hỏi người đọc một thông điệp đáng sợ
Đầu năm 2005, nhà văn Hoàng Minh Tường đã cho ra mắt bạn đọc tiểu thuyết Ngư phủ, một tiếp nối trong bộ tiểu thuyết Gia phả của đất. Bạn đọc đã từng có ấn tượng sâu sắc ở cuốn thứ nhất trong bộ về một thế giới Thuỷ hoả đạo tặc, tiếp đến cuốn thứ hai là Đồng sau bão. Nay Ngư phủ hoặc sẽ sáng chói, hoặc có thể bị lu mờ sau hai cuốn “trần gian bụi bặm chốn quê” của anh. Cuộc trò chuyện dưới đây giữa hai nhà văn thuộc Ban Sáng tác Hội Nhà văn VN sẽ mở ra cho bạn đọc một góc nhìn sâu sắc hơn khi đọc tác phẩm.

1. Giữa phố phường hoa lệ-bụi bặm, tại sao anh lại chọn một lăng kính Ngư phủ?
– Tôi thuộc cái tạng người dù có comple cravat, cổ cồn áo trắng, giày giôn đen bóng… cũng không thể đóng được vai thị thành hay trí thức được. Cái máu nhà quê nó ngấm vào hồn vía rồi. Giống như anh giáo Thứ của nhà văn Nam Cao, dù có lên tỉnh mở trường dạy học, tiếp xúc với đủ hạng người bợm bãi, thập thành, thì đêm đêm vẫn cứ phải bầu bạn với lão Hạc, với Chí Phèo và Thị Nở. Thôn quê vẫn luôn ám ảnh tôi, phủ lên tôi một thứ sóng, một trường lực khiến tôi không thể thoát ra được. Vì thế, những năm công tác ở ngành thuỷ sản( 2000-2004), hễ có dịp là tôi lại đi lang thang đến những làng chài ven biển. Ngư dân thực chất chính là người nông dân làm nghề cá. Và những làng chài, những thân phận ngư phủ nổi lênh đênh đã khiến tôi nhận ra rằng họ là một phiên bản của những người trồng lúa. Khác chăng là họ phải đối mặt với một thiên nhiên nghiệt ngã và dữ dội, khốc liệt hơn nhiều trong cuộc mưu sinh…

2. Đọc Ngư phủ, thấy nhân vật lão Đàm như có họ hàng với ông Điền bí thư chi bộ trong Thuỷ hoả đạo tặc và Đồng sau bão. Phải chăng đó là mối liên kết mà tác giả đã ngầm nối giữa những sáng tác của mình?
– Cũng có thể gọi đó là sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại của tác giả với các nhân vật trong Ngư phủ. Tôi tự coi Ngư phủ như tập ba trong bộ tiểu thuyết Gia phả của đất mà tập một là Thuỷ hoả đạo tặc, tập hai là Đồng sau bão. Vũ Trọng Lịch và Duyên, những nhân vật của Ngư phủ có họ hàng rất gần với Thanh và Vy trong Gia phả của đất. Họ là những người thừa sự thông minh dũng cảm, lòng nhân hậu vị tha, vậy mà cuối cùng họ vẫn không thắng nổi cái ác, thói ti tiện, vô nhân…

3. Đọc anh, thấy rõ tính nhân bản vẫn là một yếu tố không thể thiếu trong các tác phẩm. Nhưng ngược lại, sự bặm trợn, thô thiển đến thô tục; sự trồi sụt mất nhân cách – thể hiện trong một số nhân vật của tiểu thuyết Hoàng Minh Tường có một dấu ấn rất riêng biệt, khiến người đọc nhiều khi cảm thấy hụt hẫng mất phương hướng, hay đúng hơn là mất niềm tin giữa cuộc sống đầy rẫy bất an. Anh định đưa ra thông điệp gì? Hay chính anh cũng đang muốn hỏi người đọc một thông điệp đáng sợ nào đó?
– Tôi sợ cái câu hỏi của người phỏng vấn. Chị đã đi guốc vào bụng tôi rồi. Tôi chẳng có thông điệp gì đưa tới người đọc mà chính tôi đang muốn hỏi người đọc. Tôi chỉ biết cảm nhận và trình bày cuộc sống đầy rẫy những bất an. Mà chị thấy đấy, nhà tiểu thuyết có phải bịa một tẹo nào đâu, bản thân cuộc đời nó đã phơi bày hết cả rồi. Tôi làm sao bịa ra được những nghĩa địa tàu, “ sản phẩm” của cuộc đầu tư ồ ạt nhằm tăng nhanh đội tàu đánh bắt xa bờ, vẫn đang nằm chềnh hềnh ở nhiều cảng cá từ nam chí bắc; làm sao mà dám vu cho bọn thuỷe tặc dùng mìn, dùng kích điện và đủ mọi thủ đoạn, đang hàng ngày tàn sát ngư trường, phá hoại môi sinh? Người viết sẽ dễ trở thành đồng loã với cái ác nếu chỉ tâng bốc, bôi hồng cuộc sống. Đọc lại mình, nhiều khi chính tôi cũng thấy “ sự bặm trợn, thô thiển đến thô tục”. Tôi như hoá thân trong cái lão chủ nhiệm dỏm Lưu sáu ngón, cái gã đĩ đực, thớ lợ và đểu giả Lưu cá ngựa… để trình bày với độc giả…

4. Thảo nào những nhân vật phản diện của anh rất đáng sợ…
– Vậy là phần nào tôi đã thuyết phục được người đọc. Tôi làm cho họ hoang mang, “nhiều khi cảm thấy hụt hẫng mất phương hướng”, “mất niềm tin giữa cuộc sống đầy rẫy bất an” như chị nói. Mấy người bạn học phổ thông với tôi khi được tôi tặng sách đã bảo rằng” không dám cho con cái mới lớn đọc”. Hãi đến thế kia đấy. Nhưng cấm làm sao được độc giả, khi báo chí hàng ngày đầy rẫy những vụ án, sự đểu giả; để tuyên truyền, quảng bá, để cảnh báo, để thức tỉnh lương tri… Hay nói như chị là tôi “đang muốn hỏi người đọc một thông điệp đáng sợ nào đó”.

5. Với nhiệm vụ Phó Trưởng Ban Sáng tác Hội Nhà văn Việt Nam, anh sẽ làm gì trong vai trò mới này? Có phải là một sự bổ sung lực lượng cho vấn đề định hướng sáng tác của Ban chấp hành khoá VII Hội Nhà văn Việt Nam?
– Tôi vốn đã có mười năm làm biên tập văn xuôi ở báo Văn Nghệ, và từ Hội Nhà văn đi làm báo ở Du lịch, Thuỷ sản đến tám năm. Được về Ban Sáng tác của Hội Nhà văn VN, tôi có cảm giác như người thợ cày đã về với mảnh ruộng của mình. Một tờ báo khi biết tin tôi từ ngành thuỷ sản chuyển về Hội đã đùa rằng tôi là con cò trở về vạt đất lành. Cũng đúng thôi. Có những mảnh đất ra đi rồi, chúng ta không muốn và không đáng quay trở lại. Nhưng với Hội Nhà văn thì đó là mảnh đất hứa của những người coi nghiệp văn chương là sự nghiệp của đời mình… Được công tác ở Hội rồi thì làm một nhà văn mới là quan trọng hơn mọi thứ chức tước. Tôi có thể làm mọi thứ mà Hội yêu cầu để các nhà văn chúng ta có điều kiện sáng tác và có tác phẩm hay. Mà viết hay là điều khó nhất. Điều này thì không một ai có thể làm thay cho nhà văn cả…

6. Vâng. Anh đã nói như… một Phó Trưởng Ban sáng tác. Vậy, sau Ngư phủ sẽ là những tác phẩm mới nào?
– Viết xong một cuốn sách, tôi như người đàn bà sau sinh nở, cảm thấy có một thế giới trống không trong lòng mình. Vả lại tôi không nghĩ rằng làm văn chương là cứ phải đẻ như gà. Đang có dịch H5N1. Văn chương còn ế ẩm hơn cả thịt gà. Tôi luôn tâm niệm chỉ viết những cái gì không thể không viết ra…

7. Chúng ta đã có một cuộc trao đổi thẳng thắn về những vấn đề xung quanh Ngư phủ. Hy vọng bạn đọc sẽ hiểu thêm những vấn đề mà nhà văn Hoàng Minh Tường đưa ra trong các cuốn tiểu thuyết của mình. Xin cảm ơn anh!

Tiểu sử Nhà văn Hoàng Minh Tường

– Quê Ứng Hoà, Hà Tây.
– Cử nhân địa lý, Đại học Sư phạm Hà Nội 1970.
– Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1997 với tiểu thuyết Thuỷ hoả đạo tặc.
– Giải thưởng Văn học công nhân( 5 năm 1985-1990), Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
– Từng làm Trưởng Ban Văn xuôi, báo Văn nghệ ( 1988-1998).
– Phó Tổng Biên tập Báo Du lịch và Tạp chí Thuỷ sản.
– Các kịch bản phim truyện, phim video: “ Hà Nội mùa chim làm tổ”, “ Tình biển”…

Võ Thị Xuân Hà

THỜI CỦA THÁNH THẦN (Hoàng Minh Tường)
Tiếng nổ của văn xuôi Việt Nam 2008?

Open in new windowCuốn tiểu thuyết thoạt đầu có tựa đề “Tốt sang sông”. Cố nhà thơ Trịnh Thanh Sơn, người trước khi mắc căn bệnh ung thư vòm họng hiểm nghèo (và qua đời một năm sau đó), từng ở chung căn phòng áp mái với Hoàng Minh Tường tại Nhà sáng tác Tam Đảo, tháng 9-2006, khi biết bạn đang đánh vật với cái laptop, để đưa từng “con tốt” sang sông, liền bảo: “Ông viết trúng ý một bài thơ tôi viết cách đây mấy năm. Tôi chép lại tặng ông, nếu thích thì ông có thể lấy làm đề từ cho tác phẩm này.

Tốt sang sông

Anh muốn xóa tất cả đi như xóa một bàn cờ

Rồi kiên nhẫn bày lại từng con Tốt.

Tốt chưa qua hà đâu, em ơi đừng nóng ruột

Rồi tốt sẽ qua hà, rồi tốt sẽ đi ngang.

Hoàng Minh Tường tỏ ra tâm đắc với bài thơ này. Ông chọn thêm một câu trong “Vang bóng một thời” của nhà văn Nguyễn Tuân: “… Một con Tốt lọt qua sông là cái trị giá nó bằng nửa sức con Xe rồi. Ở đời không nên khinh thường cái gì. Con Tốt mà sang hà, tức là đứa tiểu nhân lúc đã đắc thế…”, để dành làm lời đề từ cho cuốn tiểu thuyết của mình.

Khi bản thảo hoàn thành, nhà văn Nguyễn Khắc Trường, tác giả Mảnh đất lắm người nhiều ma, Tổng biên tập NXB Hội Nhà văn, người sẽ ký “giấy thông hành” cho cuốn tiểu thuyết vào đời, là người đọc đầu tiên. Ông trầm ngâm một lát, rồi bảo: “Phải cân nhắc lại cái tên sách, in ở Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, với tựa đề Khi con tốt sang sông”.

Hoàng Minh Tường toát hết mồ hôi. Không thể lặp lại ý tưởng của người khác. Ông tin ở cái trí nhớ kỳ lạ của Nguyễn Khắc Trường. Nhiều cuốn sách nhiều bài báo in từ đời tám hoánh, không mấy ai đọc, mà ông nhà văn ma xó này vẫn nhớ vanh vách.

Nguyễn Khắc Trường chép chép miệng, rồi thêm: “Đặt tên cho cuốn sách, còn hơn cả tên khai sinh cho con mình, cực khó đấy. Truyện của ông lẽ ra phải đặt là “Những người khốn khổ”, hoặc “Con đường đau khổ”. Tiếc là các cụ Vichto Huygô và Alếcxan Tôlxtôi đã đặt mất rồi…”

Trường nói và mở to mắt nhìn Tường tủm tỉm, rồi hai gã nhà văn thông quê cùng cười hô hố, như tự thưởng cho mình những ý tưởng mà chỉ họ mới ngầm hiểu với nhau. Phải tìm một cái tên mới, Hoàng Minh Tường tự nhủ. Đành gác ván bài “Tốt sang sông” lại. Cũng tiếc một cái tựa đề đắc ý. Tác phẩm mô tả hành trình của những người nông dân đi theo cách mạng. Họ là những nông dân khoác áo lính. Ví như những con Tốt trên bàn cờ thế cuộc. Chỉ có tiến, không có lùi. Qua sông rồi thì được quyền vừa tiến vừa đi ngang. Cao cờ. Tốt có sức mạnh chẳng kém gì Xe, Pháo, Mã. Cao cờ nữa, Tốt có thể nhập cung bắt tuốt tuột Tướng, Sĩ, Tượng. Cuộc cách mạng tháng Tám, 1945 long trời lở đất đưa hàng triệu Tốt sang sông, trao cho mỗi con Tốt một sứ mạng Xe, Pháo, Mã. Và rồi họ đã hoàn thành cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ…

Sau một đêm trằn trọc, tảng sáng, tựa đề sách đã bật lên trong đầu nhà văn.“Thời của Thánh Thần”, tên tập thơ đầu tay của nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ, nhân vật chính trong tác phẩm, mà nhà văn đã dày công xây dựng, xứng đáng được chọn đặt tên cho cuốn tiểu thuyết.

“Thời của Thánh Thần” viết về những biến động của một gia đình nông dân có truyền thống khoa bảng ở làng quê châu thổ sông Hồng suốt nửa sau thế kỷ XX. Bốn anh em trai, ba con đẻ, một con nuôi, sau Cách mạng tháng Tám, 1945, mỗi người đi một ngả. Người trở thành cán bộ lãnh đạo, người là nhà thơ, người phát vãng, người ở nhà cày ruộng. Đồng hành với họ là những người đàn bà, những mối tình sét đánh, éo le, oan trái… Tất cả họ, không ai thoát khỏi những biến động, những sự kiện, những bước ngoặt lớn của đất nước. Đòn xoáy khốc liệt suốt hai cuộc chiến tranh đã cuốn họ đi, nhào nặn nên tính cách và số phận của họ. Họ là những tiêu bản, những hóa thạch của lịch sử mà qua đó nhà văn giúp người đọc hồi ức quá vãng…

Nhà lý luận phê bình Vũ Nho rất có lý khi nhận xét: “Cải cách ruộng đất, Đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, chống Xét lại, Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Hòa hợp dân tộc… Những vấn đề cốt lõi ấy được xem xét và đánh giá qua những số phận mấy đời chìm nổi của một gia đình. Thời gian đủ độ lùi cần thiết. Nhưng những hiểu biết của một cây bút phóng sự, tiểu thuyết có hạng, và suy ngẫm một đời viết, mới là yếu tố quyết định làm nên thành công của tác phẩm này…”

Đúng là, phải đợi tròn một hoa giáp, vào tuổi 60, nhà văn Hoàng Minh Tường mới đủ độ chín, đủ từng trải, đủ đau đớn, dằn vặt, và cả đủ lòng dũng cảm nữa, để viết một tác phẩm tổng kết đời văn của mình.

Tiếp nối những trang nhức nhối về nông thôn một thời mà các nhà văn đàn anh lớp trước đã đề cập (Vũ Bão với Sắp cưới, Ngô Ngọc Bội với Ác mộng, Tô Hoài với Ba người khác…), Thời của Thánh Thần chỉ chấm phá thêm đôi nét nhưng cũng đủ để khép lại một giai đoạn văn học vết thương về Cải cách ruộng đất, mà sau này các tác giả khác không nhất thiết phải quay lại. Và, cùng với mạch cảm xúc bi thương ấy, lần đâu tiên trong văn chương đương đại, sự kiện Nhân văn giai phẩm và cuộc đấu tranh với bè lũ Xét lại hiện đại, cũng như cuộc vượt biển di tản của gần hai triệu người, được nhà văn đề cập đến với cái nhìn điềm tĩnh và xa xót của một người có đủ độ lùi thời gian để phân tích, lý giải, đặng trả lại cho những nhân vật trong cuộc bức chân dung thật của họ.

Nhân vật Nguyễn Kỳ Vỹ có bóng dáng bao nhiêu văn nghệ sỹ, trí thức bị oan sai một thời. Nhân vật Nguyễn Kỳ Vọng là hình ảnh tột cùng đau đớn, vô cùng đáng thương của bao người ly hương, bao kẻ vong bản. Càng về cuối truyện, không chỉ những xung đột tính cách, sự trớ trêu số phận, mà quyết liệt hơn là những đối nghịch về quan niệm sống, lý tưởng sống, về trách nhiệm công dân đối với Dân tộc, Đất nước… cùng cộng hưởng kéo độc giả vào cuộc, tham gia tranh cãi, phản biện.

Những ai ít thích ứng trước những biến động có tính quy luật toàn cầu, hẳn sẽ phẫn nộ với những nổi loạn trong tính cách của lớp nhân vật trê như Lê Lỳ Chu, Chiến Thống Nhất, những phản biện quyết liệt của Nguyễn Kỳ Vọng, hoặc sẽ lên án cái gọi là “sự băng hoại lý tưởng”, “thoái hóa phẩm chất cách mạng” của những người từng có bề dày mấy chục tuổi Đảng, như bà Đào Thị Cam, như nhà văn cộng sản Châu Hà…

Chính độ mở của tiểu thuyết, thái độ nhập thế của tác giả, dám đối diện với những vùng khuất lấp, những mảng đời sống mà lâu nay nhiều người tự coi như vùng cấm kỵ bất khả tri… đã khiến Thời của Thánh Thần không bị rơi vào khuôn mẫu buồn tẻ, một chiều. Đây cũng chính là một bứt phá của Hoàng Minh Tường, kể từ sau hai tiểu thuyết gây tiếng vang Thủy Hỏa Đạo Tặc và Đồng sau bão.

Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm trong trường ca Văn đàn bi tráng sắp xuất bản, dường như đã có con mắt rất “xanh”, khi ông viết về Hoàng Minh Tường:

“Hết Thủy Hỏa lại đến hồi Đạo Tặc
Đồng sau bão chỏng chơ những tượng đất Thánh Thần”

Nguồn: Vietimes

 
2 bình luận

Posted by trên 09.09.2011 in Truyện ngắn hay

 

Nhãn: ,

Pauxtopxki: Bông Hồng Vàng

Bông Hồng Vàng

Open in new window
“… Anh tìm thấy Pauxtopxki trong cuộc sống
Bông hồng vàng góp lại từ đáy của đời thường”

Tôi không sao nhớ ra được là mình đã biết câu chuyện anh thợ quét rác thành Pari tên là Giăng Samet như thế nào. Samet kiếm sống bằng nghề quét dọn những xưởng thủ công trong khu phố anh ở.
Samet sống trong một túp lều ở ngoại thành. Tất nhiên, có thể tả tỉ mỉ khu ngoại ô song như vậy sẽ đưa độc giả ra ngoài lề câu chuyện. Thiết tưởng chỉ cần nhắc lại rằng, đến nay, ở những khu ngoại thành Pari, vẫn còn lại những tường thành cổ bằng đất cũng đủ.

Vào khoảng thời gian xảy ra câu chuyện, những bụi hoa kim ngân và sơn trà vẫn mọc um tùm trên tường thành và chim chóc làm tổ trong những bụi đó.
Túp lều của anh thợ quét rác nằm ép sát vào chân tường thành phía bắc, kề bên những ngôi nhà nhỏ bé của các bác hàng thiếc, các bác thợ giày, những người đi nhặt mẩu thuốc lá và những người ăn xin.
Nếu như Môpatxăng để ý đến cuộc sống của những người cư trú trong những túp lều nọ, hẳn ông đã viết thêm được một số truyện ngắn tuyệt hay. Có khi chúng sẽ làm cho vinh quang vốn đã rực rỡ của ông thêm nhiều ánh lấp lánh mới.
Đáng tiếc là không một người ngoài cuộc nào để mắt đến những nơi ấy, trừ lũ mật thám. Mà bọn này cũng chỉ ló mặt tới đấy trong trường hợp phải đi lùng kiếm đồ vật mất trộm.
Bằng vào biệt hiệu “Gõ kiến” mà hàng xóm láng giềng đặt cho Samet, ta phải hình dung anh là một người gầy gò, mũi nhọn và dưới vành mũ bao giờ cũng lủng lẳng một mớ tóc giống như mào chim.
Trước kia, Samet đã từng được sống những ngày sung sướng. Anh đăng lính trong quân đội của “Tiểu Napôlêông” trong thời gian chiến tranh ở Mêhicô.
Samet gặp may. Anh bị sốt rét nặng ở Vera-Krux. Anh lính ốm yếu chưa từng qua một trận đọ súng thật sự nào liền được gửi về nước. Viên chỉ huy trung đoàn nhân dịp bèn nhờ Samet đưa đứa con gái lên tám của ông tên là Xuyzan về Pháp.
Viên chỉ huy goá vợ, vì thế đi đâu ông cũng phải đèo bòng con gái theo. Nhưng lần này ông quyết định tạm xa con và gửi nó về cho người chị ở Ruăng. Khí hậu ở Mêhicô rất độc đối với trẻ con Âu. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh du kích hỗn độn ở đây chẳng thiếu gì những nguy hiểm bất ngờ.
Trên đường Samet về Pháp khí nóng bốc ngùn ngụt trên Đại Tây Dương. Con bé suốt ngày im lặng. Thậm chí nhìn những con cá bay vọt lên khỏi mặt nước, bóng nhẫy, nó cũng chẳng mỉm cười.
Samet hết sức chăm sóc Xuyzan. Tất nhiên anh cũng hiểu rằng con bé không chỉ mong được anh chăm sóc mà còn muốn được âu yếm vuốt ve. Mà anh, tên lính của một trung đoàn thuộc địa, anh có thể nghĩ ra được cái gì trìu mến kia chứ? Anh có thể mua vui cho nó bằng cách gì đây? Đánh mạt chược với nó chăng? Hay hát cho nó nghe những bài hát thô tục của lính tráng.
Nhưng dù sao cũng không thể cứ nín lặng mãi. Càng ngày anh càng hay bắt gặp cái nhìn băn khoăn của con bé. Cuối cùng anh đánh liều kể cho nó nghe một cách không có mạch lạc, về cuộc đời mình, nhớ lại những tình tiết nhỏ nhặt nhất về một vạn chài trên bờ biển Măngsơ, những bãi cát tơi, những vũng nước khi triều xuống, ngôi nhà thờ nhỏ trong thôn với quả chuông rạn, chuyện bà mẹ anh chữa cho hàng xóm láng giềng khỏi chứng đau rát thực quản.
Samet không tìm được chuyện gì buồn cười trong mẩu ký ức đó để làm vui cho Xuyzan. Nhưng anh ngạc nhiên thấy con bé nghe một cách háo hức và thậm chí còn bắt anh kể đi kể lại, đòi biết thêm những tình tiết mới.
Samet nặn óc tìm cho ra những tình tiết ấy, mãi cho đến khi anh không còn tin được là chúng có thật. Đó không chỉ là những ký ức, mà chỉ là bóng dáng mờ nhạt của chúng. Chúng tan ra như những mảng sương mù. Thực vậy, Samet không hề ngờ rằng sẽ có lúc anh phải khôi phục lại trong trí nhớ quãng thời gian vô ích ấy của đời mình.
Có lần anh mang máng nhớ tới một bông hồng bằng vàng. Cũng chẳng ra là Samet đã trông thấy bông hồng thô kệch đánh bằng vàng đã xuống nước móc vào cây thánh giá của Chúa trong nhà một bà lão dân chài, mà cũng chẳng ra là anh đã nghe câu chuyện về bông hồng đó do những người láng giềng kể lại.
Không, đúng là anh thậm chí đã thấy bông hồng đó và còn nhớ nó sáng lấp lánh như thế nào, mặc dù bên ngoài cửa sổ không có nắng và cơn bão buồn thảm đang gầm gào ngoài eo biển. Càng về sau, Samet càng nhớ rõ hơn cái ánh lấp lánh ấy: Nó giống như những ngọn lửa nhỏ cháy sáng dưới một trần nhà thấp.
Mọi người trong thôn đều ngạc nhiên thấy bà lão dân chài không chịu bán vật quý của mình đi. Bán nó đi bà có thể thu được cả đống tiền. Chỉ một mình mẹ Samet biết rằng bán bông hồng ấy đi là có tội, bởi vì đó là quà chúc phúc của người tình bà lão tặng bà, khi bà còn là một cô gái tươi hơn hớn làm ở nhà máy đóng hộp cá xácđin ở tỉnh Ôđécnơ.
– Trên thế gian này hiếm ai có được những bông hồng vàng, – mẹ Samet nói. – Nhà nào có nó, nhà ấy sẽ được hạnh phúc. Mà không riêng gì họ, ai đụng tới bông hồng đó, người ấy cũng sẽ được hạnh phúc.
Thằng bé Samet sốt ruột đợi mãi ngày bà lão dân chài được hưởng hạnh phúc. Nhưng đến cả bóng dáng của hạnh phúc cũng chẳng thấy đâu. Ngôi nhà của bà lão run rẩy trước gió và tối tối trong nhà cũng chẳng có ánh lửa.
Thế rồi Samet bỏ làng ra đi, không đợi được đến ngày cuộc đời bà lão thay đổi. Mãi một năm sau, một người quen làm thợ đốt lò trên con tàu chở thư ở Lơ Havrơ mới kể cho anh nghe rằng con trai bà lão bất thình lình từ Pari trở về, anh chàng họa sĩ đó râu xồm, vui nhộn và có tính khí kỳ quặc. Từ ngày ấy người ta không còn nhận ra túp lều kia nữa. Nó trở nên ồn ào và dư dật. Người ta kháo nhau rằng bọn hoạ sĩ vẽ lăng nhăng cũng kiếm được ối tiền.
Một hôm, ngồi trên boong tàu, Samet đang dùng chiếc lược sắt của mình chải mớ tóc rối tung trước gió cho Xuyzan thì con bé hỏi anh:
– Anh Giăng ơi, rồi cũng có người cho em một bông hồng vàng chứ?
– Rất có thể, – Samet trả lời. – Rồi cũng sẽ có một thằng dở hơi nào đó cho em, Xuyzan ạ! Trong đại đội anh có một chú lính gầy nhom. Thằng cha thật tốt số lạ lùng. Hắn nhặt được trên chiến trường một chiếc hàm giả gẫy, bằng vàng. Cả đại đội bèn bán đi lấy tiền nhậu. Chuyện đó xảy ra hồi chiến tranh An Nam. Các chàng pháo thủ say rượu mới lấy súng cối bắn chơi cho vui, đạn rơi vào miệng núi lửa đã tắt, nổ tung trong đó, và bị bất ngờ cú này, núi lửa liền thở phì phì và phun lại. Có trời biết tên cái núi lửa đó là gì. Hình như Kraka-Taka thì phải. Nó phun mới dữ làm sao! Bốn chục người dân bản xứ đang yên lành lăn cổ ra chết. Chỉ vì một cái hàm giả hỏng mà ngần ấy người toi mạng, thật quá quẩn! Về sau mới biết ra cái hàm răng ấy là của chính ông đại tá đơn vị anh đánh rơi. Vụ này rồi sau cũng được dẹp đi – uy tín của quân đội trên hết mà. Còn bọn anh thì chuyến ấy say bí tỉ.
– Chuyện ấy xảy ra ở đâu hả anh? – Xuyzan nghi ngờ hỏi.
– Anh đã nói rồi mà, ở tận nước An Nam, tận Đông Dương cơ. Nơi đấy đại dương bùng bùng lửa cháy, chẳng khác gì dưới địa ngục, còn những con sứa thì giống như những cái váy viền đăng ten của vũ nữ. Nơi đấy lại còn ẩm ướt nữa chứ, đến nỗi chỉ một đêm thôi, nấm đã mọc lên trong ủng bọn anh. Anh mà nói dối thì xin cứ treo cổ anh lên.
Trước đó Samet đã nghe nhiều chuyện bịa đặt của lính tráng, nhưng riêng anh, anh chưa từng bịa chuyện bao giờ. Không phải anh không biết tưởng tượng, chẳng qua anh chưa bao giờ thấy cần phải làm như vậy. Còn giờ đây anh coi việc làm vui cho Xuyzan là một bổn phận thiêng liêng.
Samet đưa Xuyzan đến Ruăng và trao tận tay cho bác gái nó – môt người đàn bà cao lớn, có đôi môi tái nhợt và mím chặt. Bà ta đeo hạt cườm đen khắp mình trông như một con rắn ở rạp xiếc.
Con bé vừa trông thấy bà bác đã vội bám chặt lấy Samet và nép vào cái áo ca pốt bạc phếch của anh.
– Không sao! – Samet thì thầm và khẽ đẩy vào vai Xuyzan. – Bọn lính trơn bọn anh cũng chẳng được lựa chọn cho mình các ông đại đội trưởng đâu. Chịu khó vậy, Xuzi, cô lính ạ!
Samet bỏ đi. Anh ngoảnh lại mấy lần nhìn lên những khung cửa sổ của ngôi nhà buồn tẻ, ở đó đến gió cũng chẳng buồn lay động các bức rèm. Nghe rõ tiếng đồng hồ hối hả trong những quán nhỏ nằm ở các phố hẹp. Trong túi dết Samet còn giữ lại kỷ niệm của Xuyzan: một cái nơ buộc tóc đã nhàu nát màu xanh. Có trời mới biết vì sao cái băng đó lại thơm dịu đến thế, như thể nó được cất giữ trong một giành hoa tím.
Bệnh sốt rét Mêhicô đã hủy hoại sức khoẻ của Samet. Anh chưa được thăng chức đội thì đã bị thải hồi, trở về cuộc sống dân thường với hàm binh nhì.
Năm tháng qua đi trong cảnh thiếu thốn đơn điệu. Samet nếm trải hết nghề cực nhọc này đến nghề khốn khổ khác và cuối cùng anh trở thành người hốt rác thành Pari. Từ đó, mùi bụi bặm và rác rưởi lúc nào cũng ám vào anh. Anh cảm thấy nó cả trong cơn gió thoảng từ phía sông Xen luồn vào trong phố, cả trong những bó hoa ướt át mà các bà lão ăn vận sạch sẽ đứng bán trên các đại lộ.
Ngày lại ngày quyện lấy nhau trong một màu vàng đục. Nhưng đôi khi trong cái màu vàng đục ấy, Samet lại thấy dấy lên trong lòng mình một áng mây hồng: Đó là bộ áo dài cũ của Xuyzan. Từ tấm áo ấy phảng phất hương xuân tươi mát như thể người ta cũng cất nó trong giành hoa tím.
Xuyzan giờ ở đâu? Em sống ra sao? Samet biết ngày nay Xuyzan đã là một cô gái trưởng thành, còn cha nàng thì đã bị tử thương.
Đã nhiều lần Samet định đi Ruăng thăm Xuyzan. Nhưng anh cứ lần lữa mãi cho đến lúc chợt hiểu rằng mình đã bỏ lỡ thời gian và chắc chắn Xuyzan đã quên hẳn anh rồi.
Anh tự mắng mình là đồ bị thịt, khi nhớ đến cuộc chia tay với Xuyzan. Đáng lẽ phải hôn cô bé thì anh lại ấn vào lưng nó, đẩy nó tới chỗ con quạ già nọ và bảo: “Chịu khó vậy, Xuzi, cô lính ạ!”
Ai cũng biết những người thợ hốt rác chỉ làm việc ban đêm. Có hai nguyên nhân buộc họ phải làm vào thời gian đó: Vì rác rưởi do con ngừơi thải ra tích tụ nhiều nhất vào cuối ngày và thứ Hai, những người thợ hốt rác không được phép xúc phạm tới thị giác và khướu giác của người dân đất kinh kỳ. Ban đêm hầu như không có ai ngửi hoặc trông thấy việc làm của họ, trừ lũ chuột cống.
Samet đã quen với công việc về đêm và còn thích thú cái khoảng thời gian ấy là khác. Nhất là lúc ánh bình minh uể oải bắt đầu chọc thủng bóng tối trên thành phố. Sương mù vương vất trên sông Xen, nhưng sương không bao giờ bay lên quá thành cầu.
Một hôm, cũng vào một buổi bình minh mờ mịt hơi sương như thế, Samet đi trên cầu Phế Binh bắc ngang sông Xen và gặp một thiếu phụ mặc áo dài màu tím nhạt, đính đăng ten đen. Thiếu phụ đứng trên thành cầu và nhìn xuống dòng sông.
Samet dừng lại, cất bỏ chiếc mũ bụi bặm và nói:
– Thưa tiểu thư, nước sông Xen lúc này lạnh lắm. Tiểu thư nên để tôi đưa về nhà thì hơn
– Giờ đây tôi cũng chẳng có nhà.
Thiếu phụ trả lời rất nhanh và quay về phía Samet.
Samet để rơi chiếc mũ.
– Xuzi! – Anh kêu lên bằng một giọng tuyệt vọng và sung sướng đến cực độ, – Cô lính Xuzi! Cô bé của anh! Thế là cuối cùng anh cũng đã gặp em. Chắc là em quên anh rồi. Anh là Giăng Ecnet Samet đây, cái anh binh nhì ở Trung đoàn Thuộc địa số Hai Mươi Bảy đã đưa em về cho mụ bác gái tởm lợm ở Ruăng đây. Em bây giờ xinh quá đi thôi! Tóc em chải mới khéo nữa chứ! Còn anh, cái thằng lính quèn này thì chẳng biết xoay xở với mái tóc em thế nào.
– Giăng! – Thiếu phụ kêu lên, đâm bổ tới ôm lấy cổ anh và khóc, – Giăng, anh vẫn tốt như xưa. Em còn nhớ hết mà!
– Rõ vớ vẩn! – Samet lầu bầu trong miệng. – Lòng tốt của anh thì lợi lộc gì cho ai. Có chuyện gì đã xảy ra với em vậy, em gái bé nhỏ của anh?
Samet kéo Xuyzan lại gần mình và làm cái việc anh không dám làm trước kia ở Ruăng: Vuốt ve và hôn lên mái tóc óng ả của nàng. Rồi anh vội lánh ra, sợ Xuyzan ngửi thấy mùi chuột cống trên áo ngoài của anh. Nhưng Xuyzan lại càng nép chặt vào vai anh hơn
– Có chuyện gì vậy, em bé nhỏ của anh? – Samet bối rối nhắc lại.
Xuyzan không trả lời. Nàng không nén được tiếng nức nở. Samet hiểu rằng lúc này chưa nên hỏi nàng chuyện gì hết.
– Anh có một cái hang chỗ tường thành. – Samet vội vã nói. – Hơi xa đây một chút. Tất nhiên ở nhà chẳng có gì hết, nhẵn như chùi. Nhưng được cái có thể hâm nước cho nóng và nằm ngủ trên giường. Nơi đó em có thể tắm táp và nghỉ ngơi. Và nói chung em muốn ở bao lâu tùy thích.
Xuyzan ở nhà Samet năm ngày. Năm ngày ấy, một mặt trời kỳ lạ cất lên trên thành Pari. Hết thảy mọi ngôi nhà, kể cả những nhà cũ kỹ nhất, ám khói, tất cả những khu vườn, thậm chí cả cái hang của Samet nữa đều rực rỡ trong những tia sáng của vừng thái dương ấy, như là những báu vật.
Ai chưa từng được xúc động với hơi thở nhè nhẹ của thiếu nữ trong giấc ngủ, người đó chưa thể hiểu thế nào là dịu dàng. Môi nàng tươi hơn cả những cánh hoa ẩm ướt và đôi hàng mi nàng lấp lánh những giọt lệ đêm.
Phải, những gì đã xảy ra với Xuyzan quả đúng như Samet dự đoán. Người tình của nàng – một diễn viên trẻ – đã phụ nàng. Nhưng năm ngày Xuyzan sống bên Samet đã đủ để cặp tình nhân làm lành với nhau.
Samet tham dự vào việc hoà giải đó. Anh phải mang thư của Xuyzan lại cho anh chàng diễn viên và đã dạy cho gã điển trai đáng ngán nọ một bài học về phép lịch sự khi gã định dúi vào tay anh vài xu tiền thưởng.
Sau đó ít lâu, anh chàng diễn viên đáp xe ngựa đến tìm Xuyzan. Và đâu lại vào đó: Một bó hoa, những cái hôn, tiếng cười qua nước mắt, lời xin lỗi và dáng vô tư ngượng ngập.
Khi đôi bạn trẻ lên đường, Xuyzan vội vã nhảy lên xe, nàng quên cả từ biệt Samet. Liền đó nàng sực nhớ ra, đỏ mặt và ngượng ngùng đưa tay cho anh.
– Em đã chọn lấy cuộc sống theo ý em, anh chỉ còn biết chúc em hạnh phúc. – Cuối cùng Samet mới lầu bầu nói.
– Em chưa biết rồi sẽ ra sao? – Xuyzan trả lời và mắt nàng ngấn lệ.
– Em băn khoăn như vậy thực là vô ích, em bé nhỏ của anh ạ! – Anh chàng diễn viên trẻ dài giọng và nhắc lại. – Em bé xinh đẹp của anh.
– Giá có ai đó tặng cho em một bông hồng vàng! – Xuyzan thở dài. – Cái đó chắc chắn sẽ mang lại cho em hạnh phúc. Em vẫn nhớ câu chuyện anh kể trên tàu, anh Giăng ạ!
– Biết đâu đấy! – Samet trả lời. – Nhưng dù sao thì người sẽ mang bông hồng vàng đến cho em cũng chẳng phải là cái anh chàng quý phái này đâu. Em tha lỗi cho anh, anh là một thằng lính, anh không ưa bọn công tử bột.
Hai người trẻ tuổi đưa mắt cho nhau. Gã diễn viên nhún vai. Chiếc xe chuyển bánh

Pauxtopxki

(Tác phẩm dịch – Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Jack London: Tình yêu cuộc sống. (Phần cuối)

Tình yêu cuộc sống (phần cuối)

Open in new window
Gã quần con gà gô mẹ kiệt sức, nhưng gã cũng tự làm mình kiệt sức. Con gà nằm nghiêng thở dốc. Gã cũng nằm nghiêng thở hồng hộc, chỉ cách nó khoảng ba, bốn mét mà không sao bò được tới nó. Và khi gã hồi tỉnh lại, nó cũng hồi sức, vỗ cánh chạy khỏi tầm với, khi gã vươn bàn tay đói lả về phía nó. Cuộc săn đuổi lại tiếp diễn. Đêm xuống hẳn và gà gô mẹ chạy thoát. Yếu ớt, gã loạng quạng vấp và lao đầu ngã sấp mặt xuống, toạc cả má, chiếc bọc vẫn trên lưng. Hồi lâu, gã không động cựa; rồi gã xoay nghiêng người, lên dây đồng hồ và nằm đó đến sáng. 

Lại một ngày mù sương. Nửa cái màn cuối cùng đã xé ra để làm giẻ bọc chân. Gã không thấy lại được dấu chân Bil. Chẳng hề gì. Cái đói đang đôn thúc gã quá xá… có điều… có điều gã băn khoăn không biết Bil có lạc nốt không. Đến trưa, cái bọc trở nên quá nặng, không chịu nổi. Gã lại chia đôi số vàng, lần này thì đơn giản là dốc toẹt một nửa xuống đất. Đến chiều, gã vứt nốt số còn lại và gã chỉ còn độc nửa cái chăn, cái xô thiếc và cây súng.

Một huyễn cảm bắt đầu quấy rầy gã. Gã tin rằng mình còn một viên đạn. Nó nằm trong ổ nòng súng và gã đã quên béng mất. Mặt khác, gã luôn biết rằng ổ đạn rỗng không. Thế nhưng huyễn cảm ấy vẫn dai dẳng. Gã xua đuổi nó hàng giờ liền, rồi mở súng ra và thấy tận mắt là ổ đạn rỗng tuếch. Sự thất vọng cũng cay đắng như thể gã thực sự chờ đợi thấy viên đạn trong đó.Gã lụi hụi đi tiếp được nửa giờ thì cơn huyễn cảm lại nổi dậy lần nữa, gã lại cố dẹp đi mà nó vẫn dằng dai cho đến lúc gã mở súng tự thuyết phục là chẳng có gì. Đôi lúc đầu gã phiêu diêu đi xa hơn, và gã lụi hụi đi như thằng người máy, với những ý nghĩ ngộ nghĩnh và ngông cuồng kỳ lạ gặm nhấm óc như những con sâu. Nhưng những cuộc du ngoạn khỏi thực tại ấy đến ngắn ngủi, vì bao giờ những dằn vặt của cái đói cào cấu cũng gọi gã trở lại. Một lần, đang phiêu du như vậy, thình lình gã bị kéo giật trở lại bởi một cảnh khiến gã suýt ngất xỉu. Trước mặt gã sừng sững một con ngựa. Một con ngựa ! Gã không thể tin ở mắt mình. Một màn sương dày rủ trong mắt gã, điểm những chấm sáng lấp lánh. Gã dụi mắt như điên để nhìn cho rõ và nhận ra không phải một con ngựa mà là một con gấu lớn màu nâu. Con vật đang ngắm nghía gã với một vẻ tò mò hung hãn.
Gã đã nâng súng lên vai rồi mới nhớ ra là không có đạn. Gã hạ súng xuống và rút con dao săn bên hông ra khỏi vỏ. Trước mặt gã là thịt và sự sống. Gã lướt ngón tay cái trên lưỡi dao. Lưỡi săc, mũi nhọn. gã sẽ lao cả người vào con gấu và giết chết nó. Nhưng tim gã bắt đầu báo động: thình thịch, thình thịch, thình thịch. Rồi tiếp theo là nhịp nhảy lên cuồng loạn và sức nén ép như một vành đai sắt thít quanh trán, cơn chóng mặt len lỏi bò vào trong đó.
Sự can đảm tuyệt vọng của gã bị một nỗi sợ dâng trào mãnh liệt đánh bật ra. Gã đang yếu thế này, nhỡ con vật tấn công gã thì sao? Gã đứng thẳng lên trong tư thế hùng dũng nhất, nắm chặt con dao và nhìn chằm chằm vào con gấu. Con gấu vụng về tiến lên vài bước, lùi lại và trút ra một tiếng gầm gừ thăm dò. Nếu con người chạy ắt nó sẽ đuổi theo. Nhưng con người không chạy. Lúc này, trong gã dấy lên lòng can đảm của khiếp sợ. Gã cũng gầm gừ, man rợ, gớm ghiếc thốt lên nỗi sợ vốn là thích hợp với sự sống và vốn xoắn xuýt quanh những rễ sâu nhất của sự sống.
Con gấu né sang một bên lủi đi, gầm gừ đe doạ. Bản thân nó cũng kinh hãi trước cái sinh vật bí ẩn hiên ngang thẳng đứng, không biết sợ ấy. Nhưng con người không động đậy. Anh ta đứng sững như một pho tượng cho đến khi cơn nguy hiểm qua hẳn, bấy giờ mới chịu khuất phục run bắn lên một hồi và quỵ xuống lớp rêu ướt.
Gã định thần lại và đi tiếp, bây giờ lại sợ theo cách khác. Không phải là sợ sẽ chết một cách thụ động vì không có cái ăn, mà sợ sẽ bị tiêu diệt một cách cuồng bạo trước khi cái đói làm suy kiệt nốt chút xíu cố gắng cuối cùng trong gã nhằm vươn tới sự sống sót. Vùng này có chó sói. Suốt cảnh tiêu điều này, vẳng tới vẳng lui tiếng sói hú, dệt cả bầu không khí thành một tấm màn đe doạ có thể sờ mó thấy, đến độ gã bỗng giơ tay lên trời, đẩy không khí ra khỏi mình, như thể nó là thành vải của một cái lều bị gió thổi ép vào.
Thỉnh thoảng, sói đi từng tốp hai hoặc ba con, kéo qua đường đi của gã. Nhưng chúng tránh gã. Chúng không đủ đông, vả lại, chúng đang săn tìm tuần lộc caribu, tụi này không đánh trả, trong khi cái sinh vật đi thẳng đứng này có thể vừa cào vừa cắn.
Xế chiều, gã bắt gặp những ống xương rải rác ở chỗ lũ chó sói đã giết một con thú. Đám xương tàn, trước đó một giờ, còn là một chú tuần lộc Caribu non kêu quang quác, chạy nhảy và đầy sức sống. Gã ngắm đống xương đã lóc sạch thịt và nhẵn bóng, với sinh bào hồng hồng bên trong còn chưa hết hẳn. Liệu có khả năng, gã cũng có thể như thế trước khi ngày tàn không? Sự sống là thế ư? Một sự hão huyền và thoảng qua. Chỉ có sống là đau đớn mà thôi. Chết thì chẳng đau gì hết. Chết là ngủ. Có nghĩa là thôi, là nghỉ ngơi. Thế thì tại sao gã lại không bằng lòng chết.
Nhưng gã không lý luận rông dài. Gã đang ngồi xổm trên lớp rêu, với một cái xương trong miệng, mút mát những vụn sinh bào còn nhuộm hồng hồng chất xương. Cái vị thịt ngọt, loãng và thoáng thấy thoáng mất gần giống như một hồi ức làm gã tức điên. Gã ngoạm hàm vào những đốt xương và nhai rào rạo. Lúc thì xương gãy, lúc thì răng gã gãy. Rồi gã bỏ xương vào giữa những hòn đá, nghiền nát nhừ và nuốt chửng. Trong lúc vội vàng gã giã cả vào ngón tay mình, và có lúc lại ngạc nhiên thấy những ngón tay không đau lắm khi bị kẹp vào đá.
Rồi đến những ngày tuyết xuống, mưa rơi kinh khủng. Gã không còn biết mình hạ trại lúc nào, nhổ trại lúc nào. Gã đi ban đêm cũng nhiều bằng đi ban ngày. Gã nghỉ luôn ở nbất cứ chỗ nào gã ngã xuống, bò đi tiếp bất cứ lúc nào ngọn lửa sống đang tan trong gã bùng lên và đỡ mù mịt hơn. Với tư cách là một con người, gã thôi không ráng sức nữa. Chính là cái sinh lực trong gã không muốn chết, nó thôi thúc gã dấn bước. Gã không đau đớn. Thần kinh gã đã cùn mòn, tê dại đi trong khi đầu óc gã đầy viễn ảnh kỳ lạ và những giấc mơ thú vị.
Nhưng gã vẫn mút và nhai những đốt xương nát của con tuần lộc non, mà những dư tàn nhỏ nhất của nó đã vun vén lại và đã mang theo. Gã không vượt đồi, cũng chẳng qua những đường phân thủy nữa mà cứ tự động theo một con suối lớn chảy qua một thung lũng rộng và nông. Gã không nhìn thấy con suối ấy cũng như thung lũng ấy. Gã không nhìn thấy gì ngoài những tấm ảnh. Hồn và xác hoặc đi hoặc bò cạnh nhau, nhưng riêng rẽ, vì sợi dây buộc chúng lại với nhau quá mảnh.
Gã thức dậy minh mẫn, nằm ngủ trên một gờ đá. Mặt trời chiếu rực rỡ và ấm áp. Xa xa gã nghe thấy tiếng những con tuần lộc non kêu quác quác. Gã nhớ mang máng là đã có mưa, có gió, có tuyết rơi, nhưng còn về việc gã đã bị dãi gió dầm mưa hai ngày hay hai tuần thì gã không biết.
Gã nằm gần như không động đậy một lúc, ánh mặt trời hiền hòa chảy tràn trên gã và toả hơi ấm thấm đẫm cái thân hình khốn khổ của gã. Một ngày đẹp, gã nghĩ. Chưa chừng gã có thể xác định được mình đang ở đâu cũng nên. Bằng một cố gắng cực nhọc gã xoay người nằm nghiêng. Phía dưới gã, một con sông rộng và lờ đờ chảy. Vẻ lạ lẫm không quen thuộc của nó khiến gã bối rối. Gã chậm rãi đưa mắt nhìn theo dòng sông uốn lượn thành những khúc rộng giữa những ngọn đồi trọc đìu hiu, đìu hiu hơn, trơ trụi hơn và lún thấp hơn mọi trái đồi gã gặp cho đến nay. Chậm rãi, từ tốn, không chút khích động hoặc chỉ với sự quan tâm hết sức bình thường, gã theo dõi dòng chảy của con sông lạ về phía đường chân trời, và thấy nó đổ vào một vùng biển sáng lấp lánh. gã vẫn không thấy náo nức gì. Thật khác thường, gã nghĩ một tấm ảnh hay một ảo giác, có vẻ là một tấm ảnh thì đúng hơn, một trò ranh ma do tâm trí rối loạn của gã. Gã chắc chắn vậy khi nhìn thấy một con tàu nằm thả neo giữa vùng biển lấp lánh. Gã nhắm mắt một lát, rồi lại mở ra. Kỳ lạ thay, tấm ảnh ấy vẫn còn ! Thế nhưng lại không kỳ lạ. Gã biết chẳng làm gì có biển hay tàu nào giữa vùng đất cằn này, cũng như gã đã biết chẳng có viên đạn nào trong cây súng rỗng không.
Gã nghe thấy một tiếng khụt khịt đằng sau mình, một tiếng thở dốc gần như bị nghẹn, hoặc một tiếng ho. Rất chậm chạp, do quá yếu và người cứng đờ, gã xoay nghiên mình sang mé kia. Gã không trông thấy gì gần kề, nhưng gã kiên nhẫn chờ. Lại thấy tiếng khịt và ho, và in bóng giữa hai tảng đá lởm chởm cách đó không đầy sáu mét, gã nhận ra cái đầu xám của một con sói. Hai cái tai nhọn không dựng hoắt lên như gã thường thấy ở những con sói khác, đôi mắt mờ và vằn tia máu, cái đầu như gục xuống rũ rượi và tuyệt vọng. Con vật chớp mắt lia lịa dưới nắng. Nó có vẻ ốm. Khi gã nhìn, nó lại khịt và ho.
Chí ít điều này cũng là thực tế, gã nghĩ và quay người sang mé kia để có thể thấy được sự thực của cái thế giới ban nãy bị tấm ảnh che phủ. Nhưng biển vẫn lấp lánh đằng xa và con tàu nhìn rõ mồn một. Rút cục, nó có phải là thực tại không? Gã nhắm mắt một hồi lâu suy nghĩ, thế rồi vỡ lẽ ra. Gã đã hướng về phía đông bắc, tách xa khỏi đường phân thủy sông Đir và đi vào thung lũng Mỏ Đồng. Cái con sông rộng và lờ đờ này là sông Mỏ Đồng. Vùng biển lấp lánh kia là Bắc Băng Dương. Con tàu kia là một tàu đánh cá voi từ cửa sông Mêchkengi lạc về hướng đông, viễn đông, và nó nằm bỏ neo trong vịnh Đăng Quang. Gã nhớ lại bản đồ của công ty Vịnh Haxđơn mà gã đã xem cách đây đã lâu, và gã thấy mọi sự trở nên rõ ràng, hợp lý.
Gã ngồi dậy và tập trung chú ý vào những công việc trước mắt. Những dải mền bọc chân đã mòn xơ ra và đôi chân gã chỉ còn là những cục thịt trầy trụa không ra hình thù gì. Cái chân cuối cùng của gã đã đi tong. Cả súng lẫn dao đều đã mất. Gã đã đánh mất cái mũ ở đâu đó, cùng với bó diêm dắt ở vành trong, nhưng số diêm trước ngực vẫn nguyên vẹn và khô ráo trong cái túi đựng thuốc lá sợi, bọc bằng giấy dầu. Gã nhìn đồng hồ. Nó chỉ mười một giờ và vẫn đang chạy. Hiển nhiên là gã vẫn lên giây đều.
Gã bình tĩnh và tự chủ. Tuy cực kỳ yếu sức, nhưng gã không cảm thấy đau đớn gì cả. Gã không đói. Ý nghĩ về thức ăn thậm chí cũng chẳng thú vị gì đối với gã và mọi điều gã làm đều do lý trí đơn thuần. Gã xé ống quần đến tận đầu gối để buộc chân. Không biết làm sao mà gã vẫn giữ được cái xô thiếc. Gã sẽ uống một chút nước nóng trước khi bắt đầu làm cái mà gã thấy trước sẽ là một chặng hành trình ghê gớm để tới con tàu.
Gã cử động chậm chạp. Run rẩy như bị chứng liệt. Khi bắt đầu thu thập rêu khô lại, gã không nhấc nổi chân được nữa. Gã thử đi thử lại rồi đành bò quanh bằng tay và đầu gối vậy. Một lần gã bò đến gần con sói ốm. Con vật miễn cưỡng lê ra khỏi đường đi của gã, liếm những chỗ nứt nẻ trên mình bằng một cái lưỡi hầu như không còn đủ sức để uốn nữa. Gã nhận thấy lưỡi nó không có cái màu đỏ lành mạnh thông thường. Nó nâu nâu vàng ệch và như phủ một lớp nhầy ram ráp và gần như khô.
Sau khi uống một ca nước nóng, gã thấy mình có thể đứng dậy và thậm chí có thể đi với mức một người sắp chết có thể đi. Cứ khoảng một phút, gã lại phải nghỉ. Bước chân gã khật khưỡng, y hệt như bước chân của con sói theo sau gã. và đêm ấy, khi bóng tối xoá mờ vùng biển lấp lánh, gã biết mình mới chỉ tiến gần thêm nó được độ hơn bốn dặm, không hơn.
Suốt đêm, gã nghe thấy tiếng ho của con sói ốm, và thỉnh thoảng, tiếng quác quác của bầy tuần lộc non. Xung quanh gã đều có sự sống, sự sống cường tráng, rất sinh động và tốt lành, và gã biết con sói ốm bám theo con người ốm với hy vọng là con người sẽ chết trước. Sáng dậy, mở mắt ra, gã thấy nó đứng lom khom, đuôi cụp giữa hai chân như một con chó khốn khổ, thiểu não. Nó run cầm cập trong làn gió sớm lạnh giá và nhe răng cười buồn nản khi con người nói với nó bằng một giọng không hơn gì một tiếng thì thầm khàn khàn.
Mặt trời lên rực rỡ và suốt buổi sáng, con người chập chững vưà đi vừa ngã về phía con tàu trên biển lấp lánh. Thời tiết thật tuyệt. Đó là cỡ thu muộn ngắn ngủi ở vùng vĩ độ cao. Nó có thể kéo dài một tuần. Mai kia, nó có thể qua đi.
Đến chiều, gã bắt gặp một vệt đường. Đó là dấu vết của một người khác. Không đi mà bò bốn chân. Gã nghĩ đó có thể là Bil, song chỉ nghĩ một cách đờ đẫn, không chút quan tâm. Gã chẳng tò mò muốn tìm hiểu gì. Thực tế, cảm giác và xúc động đã từ bỏ gã. Gã không còn biết đau. Dạ dày và thần kinh gã đã ngủ rồi. Tuy nhiên, sự sống trong gã vẫn thúc gã dấn tới. Gã thì rất mệt, nhưng nó lại không chịu chết. Chính vì nó không chịu chết mà gã vẫn cứ ăn trái cây đầm lầy và cá tuê, uống nước nóng và thận trọng canh chừng con sói ốm.
Gã đi theo dấu vết của người kia, anh chàng bò lê ấy, và chẳng mấy chốc đến chỗ tận cùng của nó: một chút xương mới lóc hết thịt, quanh đó lớp rêu sũng nước in hằn vết chân của nhiều con sói. Gã trông thấy một cái túi da nai bè bè, hệt như túi của gã, bị xé toạc ra bằng răng nhọn. Gã nhấc nó lên, tuy nó hầu như quá nặng đối vời những ngón tay yếu ớt của gã. Bil đã mang nó đến phút cuối cùng. Ha ha ! Gã sẽ cười vào mũi Bil. Gã sẽ sống sót và sẽ mang cái túi đến con tàu trên biển lấp lánh kia. Tiếng cười của gã khàn khàn và ghê rợn như tiếng quạ kêu, và con sói ốm cũng cất tiếng tru sầu thảm hoà theo. Con người bỗng nhiên ngừng bặt. Làm sao gã có thể cười vào mũi Bil nếu như cái này là Bil, đám xương trắng hồng và sạch bong này là Bil?
Gã quay đi. Ồ, Bil đã bỏ rơi gã, nhưng gã sẽ không lấy số vàng này, cũng chẳng mút xương Bil làm gì. Tuy nhiên, nếu là trường hợp ngược lại, ắt Bil sẽ chẳng tha, gã vừa chệnh choạng bước tiếp vừa nghĩ vậy.
Gã tới một vũng nước. Cúi xuống tìm cá tuê, gã bỗng giật đầu lại đằng sau như bị ong châm. Gã đã trông thấy mặt mình phản chiếu trong đó. Nó gớm ghiếc đến nỗi khua được sự nhạy cảm trong gã thức dậy đủ lâu để thấy bàng hoàng. Có ba con cá tuê ở trong vũng, vũng quá rộng không tát cạn được, và sau mấy lần lấy cái xô thiếc vục bắt không được, gã bỏ cuộc. Gã sợ vì quá yếu sức, có thể ngã tòm xuống và chết đuối. Chính vì lý do ấy mà gã không dám cưỡi lên một trong những khúc gỗ dạt vào những hố cát ven bờ sông để buông trôi theo dòng nước.
Hôm ấy, gã đã giảm được ba dặm khoảng cách giữa gã và con tàu. Hôm sau được hai dặm, vì bây giờ gã cũng bò, như Bil đã từng bò. Và đến hết ngày thứ năm, con tàu vẫn cách độ bảy dặm thì gã thậm chí mỗi ngày không vượt nổi một dặm. Cữ thu muộn vẫn còn, và gã vẫn tiếp tục bò rồi lại ngất xỉu, loanh quanh luẩn quẩn hoài, và con sói ốm vẫn ho và khụt khịt sau gót gã. Đầu gối gã đã trầy cả thịt như bàn chân gã, và mặc dầu gã đã cởi áo sơ mi làm đệm lót cho cho đầu gối, gã vẫn để lại đằng sau một vệt đỏ trên rêu và đá. Một lần, ngoái nhìn lại, gã thấy con sói thèm thuông liếm vệt máu của gã, và gã hình dung đậm nét cái kết thúc của mình có thể sẽ như thế nào… trừ phi gã xơi tái được con sói. Thế rồi bắt đầu một tấn bi kịch để tồn tại, khốc liệt chưa từng thấy: một con người ốm phải bò lết, một con sói ốm phải tập tà tập tễnh, hai sinh vật kéo lê thân xác hấp hối qua cảnh hoang sơ, và bên nọ rình cướp sự sống của bên kia.
Giá nó là một con sói khoẻ mạnh, thì hẳn con người cũng chả xem vấn đề hệ trọng đến thế đâu, nhưng nghĩ đếm việc phải làm mồi cho dạ dày của cái vật ghê tởm và gần như chết rồi này, gã chẳng ưng chút nào. Gã vốn khó tính. Đầu óc gã lại bắt đầu lang bang và bị những huyễn tượng ám ảnh, trong khi những giây phút sáng suốt trở nên mỗi lúc một hiếm và ngắn hơn.
Một lần, gã tỉnh dậy khỏi một cơn ngất nhờ một tiếng khụt khịt sát bên tai. Con sói khập khiễng nhảy lùi lại, mất thăng bằng và ngã nhào trong cơn suy kiệt. Điều đó thật kỳ lạ, nhưng gã không thấy buồn cười. Thậm chí gã cũng không thấy sợ. Gã đã vượt quá xa những phản ứng đó. Nhưng lúc ấy, trí óc gã sáng suốt, và gã nằm suy tính. Con tàu chỉ còn cách không quá bốn dặm. Gã có thể trông thấy nó rõ ràng khi gã dụi lớp sương mờ khỏi mắt, và gã trông thấy cánh buồm trắng của một con thuyền nhỏ rẽ nước trên biển lấp lánh. Nhưng gã không bao giờ có thể bò nốt bốn dặm ấy. Gã biết vậy. Tuy nhiên rất bình tĩnh trong nhận thức, gã biết mình không thể bò nổi nửa dặm. Và mặc dù thế, gã vẫn muốn sống. Thật là vô lý nếu gã phải chết sau khi chịu đựng tất cả ngần ấy thứ. Số mệnh đòi hỏi gã quá nhiều. Và đến lúc sắp chết, gã từ chối không chịu chết. Có lẽ đó là điều cực kỳ điên rồ, những ngày trong móng vuốt của cái chết, gã lại thách thức cái chết và khước từ không chịu chết.
Gã nhắm mắt lại với sự tĩnh tâm một cách thận trọng. Gã cố vượt lên sự suy nhược như một lớp sóng trào dâng, bập bềnh xô vào mọi ngóc ngách trong người gã. Nó rất giống biển, cái sự suy nhược giết người ấy, nó cứ dâng lên hoài và từng tí một nhận chìm ý thức gã. Đôi lúc, gã gần như bị chìm nghỉm, loạng quạng vung tay đập chân bơi qua quên lãng. Và một lần nữa, do một phép màu nào đó của tâm hồn, gã lại tìm thấy một mảnh ý chí và rẽ sóng lao vụt đi mạnh hơn.
Không động đậy, gã nằm ngửa, và gã có thể nghe thấy tiếng hít vào thở ra khò khè của con sói ốm mỗi lúc một sát lại gần hơn. Nó tiến lại gần, gần nữa, qua một quãng thời gian tưởng như bất tận và gã không nhúc nhích. Nó đã kề bên tai gã. Cái lưỡi khô sần sùi có vào má gã như giấp ráp. Hai tay gã phóng ra, hay chí ít là gã muốn phóng tay ra. Các ngón tay quắp lại như móng vuốt, nhưng thộp vào quãng không. Sự nhanh nhẹn và chính xác đòi hỏi sức khoẻ, mà gã thì không có sức khoẻ đó.
Sự kiên trì của con sói thật ghê gớm. Sự kiên trì của con người cũng ghê gớm không kém. Trong nửa ngày liền, gã nằm im không cựa quậy, đấu tranh để khỏi thiếp đi, chờ con vật định ăn thịt gã. Mà gã cũng muốn ăn thịt nó. Đôi khi, biển-suy-nhược dâng trào trong gã và gã mơ những giấc mơ dài, nhưng suốt thời gian đó, tỉnh hay mơ, gã vẫn chờ tiếng thở khò khè và cái lưỡi thô liếm láp.
Gã không nghe thấy tiếng thở, và truồi dần từ một cơn mơ nào đó đến cảm giác thấy chiếc lưỡi kia lia dọc bàn tay. Gã chờ. Những chiếc nanh ấn khe khẽ, rồi mạnh hơn ; con sói đang huy động hết sức tàn trong một cố gắng để cắm ngập răng vào miếng mồi nó đã chờ đợi bao lâu. Nhưng con người đã chờ sẵn từ lâu và bàn tay nát bươm nắm lấy hàm nó. Trong khi con sói vật lộn một cách yếu ớt và bàn tay bóp lại một cách yếu ớt, thì bàn tay kia từ từ trườn qua thành một gọng kìm. Năm phút sau, cả trọng lượng của con người đè lên trên con sói . Hai bàn tay không đủ sức để bóp nghẹt con sói nhưng mặt con người áp sát vào họng con sói và mồm con người đầy những lông. Hết nửa giờ, con người nhận thấy một dòng âm ấm chảy vào họng mình. Cái đó chẳng lấy gì làm thú vị. Nó như chì nóng chảy đọng vào dạ dày gã, và gã được tọng vào hoàn toàn chỉ do ý chí của gã mà thôi. Sau đó con người lăn kềnh ra, nằm ngửa lên và ngủ…

… Có một số thành viên của đoàn thám hiểm khoa học trên chiếc tàu đánh cá voi Bedfod. Từ trên bông, họ nhận thấy một vật kỳ lạ trên bờ. Vật ấy di chuyển xuôi bãi biển về phía mặt nước. Họ không thể xác định đó là loại gì. Và, vốn là những nhà khoa học, họ trèo vào chiếc xuồng bên sườn tàu, đáp vào bờ để xem cho rõ. Và họ thấy một cái gì còn sống nhưng khó mà có thể gọi là một con người. Nó lòa lẫm, không ý thức. Nó oằn oại trên mặt đất như một con sâu kỳ quái. Phần lớn những cố gắng của nó đều vô hiệu. nhưng nó bền bỉ, nó vặn mình, quằn quại và mỗi giờ có lẽ tiến lên được năm sáu mét.
Ba tuần sau, người đàn ông nọ nằm trong một chiếc giường trên tàu đánh cá voi Bedfod, và nước mắt ròng ròng trên đôi má hốc hác, gã kể lại lai lịch mình là ai và đã trải qua những nông nỗi gì. Gã cũng nói lõm ba lõm bõm về mẹ gã, về miền nam Califonia đầy nắng và một ngôi nhà giữa những lùm cam và những khóm hoa.
Ít ngày sau, gã ngồi cùng bàn ăn với những nhà khoa học và các sĩ quan trên tàu. Gã hau háu nhìn cảnh đồ ăn ê hề, bồi hồi theo dõi những thức ăn ấy biến vào miệng những người khác. Cứ mỗi miếng mất đi, trong mắt gã lại hiện lên một vẻ tiếc nuối sâu sắc. Tâm thần gã hoàn toàn lành mạnh, tuy nhiên gã căm ghét họ vào giờ ăn. Gã bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi là lương thực không còn tồn tại lâu dài. Gã hỏi đầu bếp, hầu phòng và thuyền trưởng về lương thực dự trữ. Họ trấn an gã không biết bao nhiêu lần, nhưng gã không thể tin họ, và gã khôn khéo nhòm ngó quanh chỗ hầm kho để thấy tận mắt.
Người ta nhận thấy gã béo ra. Mỗi ngày gã một to xù. Các nhà khoa học lắc đầu là hợp lý. Họ hạn chế gã trong những bữa ăn, nhưng vòng bụng gã vẫn tăng và gã trương phình ra kỳ lạ dưới chiếc áo sơ mi.
Đám thủy thủ tủm tỉm cười. Họ biết. Và khi các nhà khoa học cắt người theo dõi gã, họ cũng biết. Họ thấy gã thông thạo đi ra phía trước, sau khi điểm tâm, và lại gần một thuỷ thủ, chìa tay ra như một kẻ hành khất. Tay thủy thủ nhe răng cười và đưa cho gã một miếng bích quy. Gã bo bo nắm chặt lấy, nhìn ngắm như một anh hà tiện ngắm vàng, rồi nhét vào ngực áo. Các tay thủy thủ khác vừa cười vừa cho như vậy.

Các nhà khoa học vốn kín đáo. Họ để mặc gã. Nhưng họ bí mật xem xét giường của gã. Giường được lót bằng bánh quy khô, đệm được nhồi bằng bánh quy khô, mọi xó xỉnh ngóc ngách đều lèn đầy bánh quy khô. Tuy nhiên, gã không loạn trí. Gã lo đề phòng một cơn đói khác có thể xảy ra, có thể thôi. Rồi gã sẽ qua, các nhà khoa học nói thế. Và quả nhiên, gã qua khỏi thật, trước khi cây neo của tàu Bedfod gieo ùm xuống vịnh San Francisco.

Jack London

 

Nhãn: ,

Jack London: Tình yêu cuộc sống.(Phần I)

Tình yêu cuộc sống(Phần I)

Open in new window– Ảnh: Jack London 1925
Họ hì hụi tập tễnh xuống bờ suối, và có lần gã đi đầu trong số hai người loạng choạng giữa lớp đá lởm chởm. Họ mệt, yếu lử lả và mặt họ thuỗn ra cái vẻ nhẫn nại do chịu đựng gian khổ đã lâu. Họ đeo những bó nặng bọc mềm có quai đeo vào vai. Những bọc này còn có những đai đầu quàng qua trán cho đỡ nặng. Mỗi người mang một cây súng trường. Họ bước đi trong tư thế lom khom, vai chúi hẳn về đằng trước, đầu còn nhô xa hơn, mắt cúi gằm xuống đất.

– Giá như chúng mình có hai viên đạn ở chỗ giấu của chúng mình – người thứ hai nói.
Giọng gã hoàn toàn vô cảm một cách buồn tẻ. Gã nói không một chút hào hứng; và người đi đầu trật trà trật trưỡng trong dòng suối trắng như sữa sủi bọt trên những mô đá, không buồn trả lời.
Gã kia theo sát gót hắn ta. Họ không cởi giày, tất gì hết, mặc dầu nước giá lạnh, lạnh đến nỗi đau cả mắt cá và bàn chân tê cóng. Có những chỗ, nước xô vào đầu gối họ, và cả hai chệnh choạng quờ tìm chỗ đặt chân.
Gã đi sau trượt chân trên một phiến đá nhẵn lì, suýt ngã, nhưng hết sức cố gắng gượng dậy, đồng thời ré lên một tiếng kêu đau. Gã có vẻ lả đi, chóng mặt và trong khi lảo đảo, giơ bàn tay rảnh ra như muốn níu vào không khí. Khi đứng vững rồi, gã bước tiếp nhưng lại lảo đảo và suýt ngã lần nữa. Rồi gã đứng im và nhìn người kia, tay này không ngoảnh đầu lại lấy một lần.
Gã đứng im cả một phút như bàn luận với chính mình, rồi lên tiếng gọi:
– Này Bil, mình bị trẹo mắt cá rồi.
Bil vẫn ngật ngưỡng đi qua dòng nước trắng sữa. Hắn không quay lại nhìn. Gã kia ngó theo hắn đi và tuy mặt gã vẫn đờ đẫn như trước, nhưng cặp mắt thì lại như mắt một con nai bị thương.
Người nọ tập tễnh lên bờ bên kia và tiếp tục đi thẳng không nhìn lại. Gã ở giữa dòng ngó theo. Môi gã run rẩy khiến lớp lông nâu phủ bên trên động đậy rõ rệt. Cả lưỡi gã cũng thè ra liếm môi.
– Bil ! – gã gọi to.
Đó là tiếng kêu khẩn cầu của một người khoẻ mạnh trong cơn quẫn bách, nhưng Bil không ngoái đầu lại. Gã kia nhìn theo hắn đi, tập tễnh đến tức cười và loạng quạng tiến dần từng bước theo bờ dốc thoải hướng tới nét lượn mềm in lên nền trời của trái đồi thấp. Gã nhìn theo cho đến khi Bil đi qua đỉnh đồi và biến mất. Rồi gã xoay hướng nhìn và từ từ đảo mắt vòng quanh thế giới còn lại với gã giờ đây khi Bil đã đi khỏi.
Gần chân trời, vầng dương thoi thóp mờ mờ, gần như bị những đám sương mù và hơi không ra hình thù gì che khuất, gây một cảm giác về tảng khối và đậm đặc không đường nét hoặc không cụ thể. gã rút đồng hồ ra xem, dồn trọng lượng toàn thân trên một chân. Đã bốn giờ và vì đận này đã gần cuối tháng bảy hay đầu tháng tám – trong vòng một, hai tuần nay, gã không còn nhớ đích xác ngày tháng – gã biết là mặt trời lúc này ang áng chỉ hướng tây bắc. Gã nhìn về phía nam và biết rằng đâu đó bên kia những trái đồi heo hút này, là Hồ Gấu Lớn; gã cũng biết rằng ở phía ấy vòng tròn bắc cực cắt ngang vùng hoang địa Canada. Con suối mà gã đang đứng giữa dòng là một nguồn tiếp nước ra sông Mỏ Đồng, sông này lại chảy theo hướng bắc đổ vào Vịnh Đăng Quang và Bắc Băng Dương. Gã chưa bao giờ tới đó, nhưng gã đã thấy nơi ấy một lần trên một tấm bản đồ của công ty Vịnh Haxđơn.
Một lần nữa, mắt gã lại đảo khắp một vòng cái thế giới quanh gã. Một quang cảnh không lấy gì làm phấn khởi. Đâu đâu cũng là đường chân trời mềm mại. Các trái đồi đều thấp. Chẳng có cây to, cây nhỏ cũng chẳng có cỏ, chẳng có gì ngoài một sự tiêu điều mênh mông và ghê gớm, khiến cái sợ mau chóng nhóm lên trong mắt gã.
Bil ! – gã thì thào, một lần rồi hai lần: – Bil !
Gã co ro giữa dòng nước trắng sữa, như thể khoảng không rộng lớn đang ép lên gã với một sức mạnh áp đảo, đè dí gã một cách thô bạo với sự uy nghi đầy tự mãn của nó. Gã bắt đầu run lên như cơn sốt, cho đến khi cây súng rơi đánh tõm khỏi tay gã . Điều đó có tác dụng khuấy động gã. Gã đấu tranh với nỗi sợ và trấn tĩnh lại, mò xuống nước nhặt cây súng lên. Gã nhích cái bọc qua về phía vai trái, để chuyển bớt một phần trọng lượng khỏi đè lên phía mắt cá bị thương. Rồi gã từ từ và thận trọng tiến vào bờ, mặt nhăn nhó vì đau.
Gã không dừng lại. Với một sự tuyệt vọng như điên, bất kể đau, gã hối hả lên dốc tới tận đỉnh đồi, nơi bạn gã đã đi khuất, dáng vẻ còn tức cười hơn nhiều so với tay bạn tập tễnh, ngật ngưỡng nọ. Nhưng tới đỉnh, gã trông thấy một thung lũng nông, trống vắng sự sống. Gã lại đấu tranh với cái sợ, vượt lên được, nhích thêm cái bọc qua nửa vòng phía vai trái và tiếp tục lảo đảo xuống dốc.
Đáy thung lũng sũng nước được lớp rêu dày, tựa bọt biển, hút xâm xấp trên mặt. Nước ấy, cứ mỗi bước, lại bắn vọt từ dưới chân gã và mỗi lần gã nhấc chân lên, lại nghe kêu đánh oạp khi lớp rêu ướt miễn cưỡng nhả ra. Gã lách đường từ đám lầy này sang đám lầy khác và dò theo dấu chân của người kia, dọc, ngang những gờ đá lô nhô như những hòn đảo nhỏ giữa biển rêu.
Tuy có một mình, nhưng gã không lạc. Gã biết đi quá nữa, gã sẽ đến chỗ có những cây vân sam và linh sam chết nhỏ xíu và quắt queo bên bờ một con hồ nhỏ, Titsinisili, tiếng địa phương có nghĩa là “Vùng đất của những chiếc que nhỏ”. Và chảy vào hồ ấy, là một con suối nhỏ, nước không lờ lờ màu trắng sữa. Trên bờ dòng suối này có cỏ bấc, điều này gã nhớ rất rõ, nhưng không có cây to, và gã sẽ ngược theo nó đến đầu nguồn của một đường phân thủy. Gã sẽ qua đường phân thủy đó, tới đầu nguồn một con suối khác chảy vào sông, ở đấy gã sẽ tìm thấy một chỗ cất giấu dưới một cái xuồng lật sấp, với nhiều phiến đá xếp chồng lên trên. Và trong chỗ cất giấu ấy, sẽ có đạn cho cây súng rỗng không của gã, lưỡi câu và dây câu, một cái lưới nhỏ, tất cả những thứ đó dùng cho việc giết và bẫy mồi làm thức ăn. Gã cũng sẽ tìm thấy bột mì, không nhiều, một miếng thịt lợn và chút ít đậu.
Bil sẽ đợi gã ở đó và họ sẽ chèo xuồng xuôi về nam trên sông Đijơ đến Hồ Gấu Lớn. Và họ sẽ xuyên qua hồ về phía nam, cứ phía nam đi miết cho đến khi tới sông Meckenji. Và lại hướng nam, vẫn hướng nam, họ sẽ tiếp tục đi, trong khi mùa đông hoài công đuổi theo họ, băng đóng trong những xoáy nước, và ngày trở nên lạnh giá và hanh, cứ hướng nam mà tiến, đến một trạm ấm áp nào đó của công ty Vịnh Haxđơn, ở đó có cây mọc cao và thoáng, ở đó có ê hề đồ ăn, thức uống.
Đó là những ý nghĩ của người đàn ông này, khi gã gắng sức dấn bước. Nhưng dầu nỗ lực mấy về thể xác, gã cũng nỗ lực không kém về tinh thần, cố nghĩ rằng Bil không bỏ gã, rằng Bil chắc chắn sẽ chờ gã ở chỗ cất giấu. Gã buộc phải nghĩ vậy, nếu không thì việc gì phải ráng sức, cứ nằm xuống và chết cho rồi. Và trong khi mặt trời như quả cầu mờ từ từ lặn xuống mé tây bắc, gã điểm qua suốt lượt, nhiều lần, từng phần một chặng đường trốn chạy xuống phía nam của gã và Bil trước khi mùa đông tới. Và gã xem đi xét lại những đồ ăn ở nơi cất giấu và ở trạm. Đã hai ngày, gã không ăn gì cả, trong một thời gian dài hơn thế nhiều, gã phải bóp miệng, không có đủ những gì gã muốn ăn. Nhiều lúc, gã cúi xuống nhặt những quả tai tái mọc ở đầm lầy, bỏ vào miệng, nhai và nuốt. Đó là một tí hạt bọc trong một tí cùi nước. Bỏ vào mồm, cùi nước tan ra và hạt nhai găn gắt, đắng nghét. Gã biết quả ấy chẳng bổ béo gì, song cứ kiên nhẫn nhai, với một hi vọng lớn hơn kiến thức và bất chấp kinh nghiệm.
Đến chín giờ, gã vấp ngón chân vào một mô đá và chỉ vì mệt và yếu, gã lảo đảo, quỵ ngã. Gã nằm nghiêng một lúc, không động cựa. Rồi gã rút tay ra khỏi quai đeo bọc và lóng ngóng gượng ngồi dậy. Trời chưa tối hẳn và trong ánh hoàng hôn còn vương lại, gã rờ rẫm quanh, tìm những mảng rêu khô giữa những phiến đá. Khi đã vun lại được một đống, gã đốt lên một ngọn lửa, một ngọn lửa lom rom, lem nhem, và đặt lên một bình thiếc đựng nước để đun sôi.
Gã mở cái bọc và việc đầu tiên là đếm các que diêm. Có sáu mươi bảy que. Gã đếm tới ba lần cho chắc. Gã chia làm nhiều phần, gói bằng giấy dầu, cất một bó vào cái túi đựng thuốc lá đã rỗng không , một bó khác vào đai trong của chiếc mũ nhàu nát, bó thứ ba vào dưới ngực áo sơ mi. Làm xong việc đó, gã chợt hoảng và giở tất cả ra đếm lại. Vẫn còn nguyên sáu mươi bảy que.
Gã hong giầy tất bên bếp lửa cho khô. Đôi giày da đanh rách bươm, ướt sũng. Bít tất nhiều nhỗ thủng, chân gã trầy da cà rướm máu. Mắt cá giần giật và gã xem xét kỹ chỗ đau. Nó đã sưng lên to bằng đầu gối. Gã xé ở một trong hai tấm mền ra một miếng dài và buộc chặt lấy mắt cá. Gã xé thêm nhiều dải khác buộc quanh hai chân thay cả giầy lẫn tất. Rồi gã uống bình nước nóng bốc hơi, lên giây đồng hồ và mò vào giữa hai lớp mền chăn.
Gã ngủ như chết. Bóng tối ngắn ngủi vào khoảng nửa đêm, đến rồi đi. Mặt trời lên ở mạn đông bắc, chí ít là ngày đã rạng ở khu vực ấy, vì mặt trời bị những đám mây xám che khuất.
Sáu giờ, gã thức giấc, nằm ngủ bình thản. Gã nhìn thẳng lên bầu trời xám và biết rằng mình đói. Khi chống khuỷu tay xoay người đi, gã giật mình vì một tiếng khịt to và trông thấy một con tuần lộc caribu đực đang nhìn gã với vẻ tò mò cảnh giác. Con vật cách gã không quá mười lăm mét và lập tức trong óc gã bật lên hình ảnh và vị thơm ngon của một miếng bit-tết caribu rán xèo trên bếp lửa. Như cái máy, gã với tay ra lấy cây súng rỗng không nhằm và bóp cò. Con tuần lộc khịt khịt và nhảy đi, móng nện lóc cóc khi chạy qua những mô đá.
Gã rủa một tiếng rồi quẳng cây súng rỗng không khỏi mình. Gã rên to khi bắt đầu nhổm người đứng dậy. Đó là một công việc chậm chạp và gay go. Các khớp xương của gã như những bản lề gỉ. Chúng ngúc ngắc khó khăn trong hốc xương vì cọ sát nhiều, và mỗi động tác gập vào hay duỗi ra đều chỉ thực hiện được với sự cố gắng ghê gớm. Cuối cùng khi gã điều khiển được đôi chân, lại mất độ một phút nữa để đứng thẳng lên được, đứng như tư thế của một con người. Gã bò lên một cái gò nhỏ và nhìn khắp xung quanh. Không có cây to, cũng chẳng có cây bụi, chẳng có gì ngoài một biển rêu xám, lác đác điểm xuyết bằng những tảng đá xám, những hồ nhỏ màu xám, những suối nhỏ màu xám. Bầu trời cũng xám. Không có nắng, cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của mặt trời; gã không còn biết đâu là phương bắc và gã đã quên đêm qua gã đã đến chỗ này bằng cách nào. Nhưng gã không lạc. Điều đó thì gã biết. Chẳng bao lâu gã sẽ đến Vùng đất của những chiếc que nhỏ. Gã cảm thấy nó nằm bên trái đâu đấy không xa, có thể ngay sau trái đồi thấp sắp tới.
Gã quay lại xếp cái bọc cho vuông vức để lên đường. Gã kiểm tra cho chắc chắn là vẫn còn ba gói diêm riêng rẽ, tuy nhiên gã không mất thì giờ đếm lại. Nhưng gã có lần chần, cân nhắc về một cái túi da nai bè bè. Nó không to. Gã có thể che dấu nó dưới hai bàn tay mình. Gã biết nó nặng mười lăm “pao” – bằng phần còn lại của cái bọc- và nó làm gã băn khoăn. Cuối cùng, gã để nó sang một bên và cuộn cái bọc lại. Gã ngừng lạ, đăm đăm nhìn cái túi da nai bè bè. Gã nhặt vội nó lên, đưa mắt nhìn quanh ra chiều thách thức, tựa hồ sự hoang sơ đang chực cướp nó đi vậy, và khi gã đứng dậy để loạng choạng đi vào ngày mới, thì nó đã được gói gọn trong cái bọc trên lưng.
Gã rẽ sang bên trái, thỉnh thoảng dừng lại để ăn những trái cây đầm lầy. Mắt cá gã đã cứng ngắc, bước đi cà nhắc hơn, nhưng cái đau ấy hồ như chẳng thấm gì so với cái đau hành hạ dạ dày. Những cơn đói quặn thắt ruột thắt gan cứ nhay hủy cho đến khi gã không thể giữ cho đầu óc tập trung vào lộ trình gã phải theo để tới “Vùng đất của những chiếc que nhỏ”. Những trái cây đầm lầy không làm sao giảm nhẹ được sự nhay nghiến đấy, mà chỉ làm cho lưỡi và vòm miệng gã đau rộp lên.
Gã tới một thung lũng, tại đó gà gô núi đá vỗ cánh rào rào bay lên từ những gờ đá và bãi lầy. “Kéc… kéc… kéc”, chúng kêu như vậy. Gã lấy đá ném nhưng không trúng con nào. Gã đặt cái bọc xuống đất và rón rén đến gần chúng như mèo định lén bắt chim sẻ. Đá nhọn cứa qua ống quần đến độ đầu gối gã để lại một vết máu. Nhưng cái đau ấy chìm trong cái đau đói bụng. Gã bò ngoằn ngoèo trên lớp rêu ướt, quần áo ướt đẫm, người rét run ; những cơn sốt cuồng đòi ăn quá lớn, khiến gã không còn biết tới cảm giác đó. Và lũ gà gô vẫn bay lên rào rào trước mặt gã, đến khi tiếng “kéc… kéc” của chúng trở thành một sự trêu chọc đối với gã, và gã rủa chúng, quát ngậu lên với chúng.
Một lần, gã bò tới một con, chắc đang ngủ. Mãi đến lúc nó vụt lên từ hốc đá ngay trước mặt gã, gã mới trông thấy nó. Gã chộp một cái, cũng bất thần như con gà gô bay lên, và trong tay gã còn lại ba cái lông đuôi. Nhìn theo nó bay, gã thấy căm thù nó như thể nó đã hại gã một điều gì ghê gớm lắm. Rồi gã quay lại và khoác cái bọc lên vai.
Giờ này qua giờ khác gã đi vào những thung lũng hoặc những chỗ đất thấp lầy còn nhiều thú săn hơn nữa. Một đàn tuần lộc caribu đi qua, có tới hơn hai chục con, ở trong tầm súng như trêu ngươi. Gã cảm thấy một khao khát cuồng dại muốn đuổi theo chúng, tin chắc mình có thể bắt được chúng. Một con cáo đen tiến về phía gã, mồm ngậm một chú gà gô. Gã la lên. Đó là một tiếng kêu ghê sợ, nhưng con cáo hốt hoảng nhảy đi, không buông rơi con gà gô.
Xế chiều, gã lần theo một con suối, nước lờ lờ chất vôi, chảy qua những vạt cỏ bấc rải rác. Nắm chặt những bụi cỏ bấc ấy ở quãng gần rễ, gã nhổ lên một cái gì từa tựa một đọt hành non, không lớn hơn chiếc đinh ván. Nó mơn mởn và răng gã cắm ngập vào đó, gặm rau ráu tưởng chừng sẽ là món ăn tuyệt diệu. Nhưng thớ nó rắn cấc. Nó gồm những sợi đẫm nước, như những trái cây bãi lầy nọ, và chẳng có chất dinh dưỡng gì. Gã quẳng cái bọc xuống và quỳ gối bò vào đám cỏ bấc, gặm và nhai trệu trạo như trâu bò.
Gã rất mệt và nhiều lúc muốn nghỉ, nằm ềnh ra và ngủ; nhưng gã vẫn bị thôi thúc dấn bước liên tục bởi cái đói hơn là bởi nỗi mong muốn tới được “Vùng đất của những chiếc que nhỏ”. Gã sục những vũng nước mò ếch nhái và lấy móng tay đào đất tìm giun, mặc dầu gã biết ở mạn cực bắc này chẳng làm gì có ếch nhái cũng như giun.
Gã hoài công soi mói từng vũng nước, cho đến khi hoàng hôn đến, gã mới phát hiện ra một con cá lẻ loi, bằng cỡ một con cá tuê, trong một cái vũng như vậy. Gã thọc tay xuống nước đến tận vai, nhưng con cá lẩn thoát. Gã với cả hai tay ra chộp nó, khuấy tung lớp bùn đục lờ dưới đáy. Thế là nước đục ngầu lên khiến gã không thấy nó đâu nữa và buộc phải đợi cho bùn lắng xuống.
Cuộc săn bắt tiếp tục, cho đến khi nước lại đục ngầu lên. Nhưng gã không thể đợi được nữa. Gã tháo chiếc xô thiếc và bắt đầu tát nước. Thoạt đầu gã tát như điên, bắn vung cả lên người, và hắt nước gần quá thành thử lại chảy về vũng. Rồi gã làm thận trọng hơn, cố gắng bình tĩnh, mặc dầu tim đập vào thành ngực thình thịch và hai tay run lên. Được nửa giờ, vũng nước gần cạn khô. Chỉ còn không đầy một cốc nước. Mà chẳng thấy cá đâu. Gã tìm ra một khe nứt giữa lớp đá, nó đã chui qua đó trốn sang cái vũng bên cạnh to hơn, một cái vũng mà có bỏ cả một ngày, một đêm gã cũng chẳng thể tát cạn. Nếu có biết cái khe nứt ấy thì gã ắt đã lấy một hòn đá bịt lại từ đầu và giờ đây con cá ắt đã là của gã.
Nghĩ thế, gã vật mình vật mẩy trên nền đất ướt. Mới đầu gã khóc khe khẽ một mình, rồi khóc to tướng với cả cảnh hoang sơ vô tình bao quanh gã; và hồi lâu sau, người gã còn rung lên những tiếng nấc khan.
Gã đốt một đống lửa, uống hàng ca nước nóng cho ấm người; và hạ trại trên một gờ đá như đêm trước. Việc làm sau cùng của gã là lo cho số diêm thật khô ráo và lên dây đồng hồ. Những tấm mền thì ướt và dính nháp. Mắt cá gã đau giần giật. Nhưng gã chỉ biết rằng gã đói và, qua giấc ngủ náo động, gã mơ thấy tiệc lớn, tiệc nhỏ và thức ăn bày la liệt theo đủ mọi cách có thể tưởng tượng được.
Gã thức dậy, rét run và nôn nao. Không một chút nắng. Màu xám của đất và trời đã trở nên đậm hơn, sâu hơn. Một ngọn gió rét căm căm thổi và những bông tuyết đầu tiên làm trắng xoá những đỉnh đồi. Không khí quanh gã dày đặc thêm và quánh dần trong khi gã đốt một đống lửa và đun thêm nước. Tuyết ướt, gàn như mưa, và những bông tuyết vừa to vừa sũng nước. Thoạt đầu, mới chạm đất, chúng đã chảy liền, nhưng mỗi lúc một xuống nhiều, phủ kín mặt đất, dập tắt lửa làm hỏng cả chỗ rêu dự trữ làm chất đốt của gã.
Điều đó thành một tín hiệu cho gã khoác cái bọc lên vai và ngật ngưỡng bước tiếp, không biết là đi đến đâu. Gã không bận tâm đến “Vùng đất của những chiếc que nhỏ”, cũng như đến Bil và chỗ cất giấu dưới cái xuồng lật sấp bên dòng sông Đir nữa. Thống ngự gã lúc này là động từ “ăn”. Gã đang đói điên người. Gã chẳng để ý gì đến hướng đường gã đang đi theo, chừng nào hướng ấy dẫn gã qua những bãi thấp. Gã dò dẫm qua tuyết ướt lần tới những trái cây đầm lầy mọng nước và đi bằng cảm giác trong khi gã nhổ những rễ cỏ bấc. Nhưng cái món này thật vô vị không thoả mãn được gì cả. Gã tìm được một thứ cỏ có vị chua và kiếm được bao nhiêu cỏ ấy, gã ăn tuốt, cũng chẳng nhiều nhặn gì, vì nó là loại cây bò sát, dễ bị lấp dưới tuyết dày hàng mấy phân.
Đêm ấy, gã không có lửa, cũng không có nước nóng, gã chui vào chăn ngủ giấc ngủ đứt quãng vì đói. Tuyết chuyển thành mưa lạnh. Gã tỉnh dậy nhiều lần để cảm thấy nó rơi trên khuôn mặt úp sấp của mình. Ngày đến, một ngày đen xám và không có mặt trời. Mưa đã tạnh. Cái nhói buốt của cơn đói đã biến đi. Về sự háo hức muốn có cái ăn, mức nhạy cảm đã kiệt. Bụng gã âm ỉ một cái đau nặng trịch, song nó không quấy rầy gã nhiều như trước. Gã trở nên duy lý hơn, và một lần nữa gã lại quan tâm chủ yếu tới Vùng đất của những chiếc que nhỏ và chỗ cất giấu ở bờ sông Đir.
Gã xé mảnh còn lại của một tấm mền thành từng dải để buộc đôi bàn chân tướp máu. Gã cũng buộc chặt lại chỗ mắt cá bị thương và chuẩn bị cho một ngày đường. Khi đụng đến cái bọc, gã ngừng lại hồi lâu suy tính về chiếc túi da nai bè bè, nhưng rốt cuộc vẫn mang nó đi theo.
Dưới mưa, tuyết đã tan chảy và chỉ còn những đỉnh đồi là phô màu trắng. Mặt trời ló ra và gã định vị được các hướng địa bàn, mặc dầu giờ đây gã biết là mình đã lạc. Có lẽ, trong khi lang thang những hôm trước, gã đã quá lệch về bên trái. Giờ đây gã ghé sang phải cho cân lại độ có thể sai lệch khỏi hướng chính gã cần đi theo.
Mặc dầu cái đói không còn hành hạ dữ dội như trước nữa, nhưng gã nhận biết rằng mình rất yếu, gã buộc phải dừng lại nghỉ luôn, để nhá những trái cây đầm lầy và những vạt cỏ bấc. Gã cảm thấy lưỡi mình khô và to tướng như mọc đầy một lớp bông nhỏ li ti, và có vị đắng ngắt trong mồm. Tim gã làm rầy gã ghê gớm. Đi được ít phút, nó đã bắt đầu nện không thương xót thình thịch, thình thịch, thình thịch, rồi nhảy loạn xạ trong một thôi đập xao xuyến, đau đớn, khiến gã nghẹn thở, lử lả và chóng cả mặt. Đến giữa trưa, gã tìm được hai con cá tuê ở một cái vũng to. Không thể tát cạn nó được, nhưng bây giờ gã bình tĩnh hơn và xoay xở bắt được chúng vào trong cái xô thiếc. Chúng không dài hơn ngón tay út của gã, nhưng gã không đói lắm. Cái đau âm ỉ trong bụng gã đã lắng xuống và yếu đi. Như thể dạ dày gã đang ngủ gà ngủ gật vậy. Gã ăn cá sống, thận trọng nhai một cách vất vả, vì việc ăn là một hành động thuần túy lý trí. Tuy gã chả muốn ăn chút nào, nhưng gã biết mình phải ăn để mà sống.
Chiều đến, gã bắt được thêm ba con cá tuê, ăn hai con và để dành một con cho bữa điểm tâm sáng hôm sau. Mặt trời đã sấy khô những mảng rêu rải rác và gã có thể sưởi ấm bằng nước nóng. Hôm ấy gã không đi được quá mười dặm ; và hôm sau, cất bước khi nào tim gã cho phép, gã đi được không quá năm dặm. Nhưng dạ dày gã lại không hề làm gã khó chịu tí nào. Nó đã ngủ. Một điều nữa: gã đang ở một vùng đất lạ và tuần lộc caribu tại đây tăng nhiều hơn, cả sói nữa. Lắm lúc tiếng hú của chúng vang qua cảnh tiêu điều, và một lần gã trông thấy ba con lẩn tránh trước mặt gã, trên đường đi.
Lại một đêm nữa; và sáng hôm sau, duy lý hơn, gã cởi dây da buộc cái túi da nai bè bè. Từ mệng túi đã mở, chảy tuôn một dòng bụi vàng thô và quặng vàng. Gã chia đại khái số vàng ra làm hai phần, giấu một nửa vào một gờ đá nhô ra, gói nửa kia vào một mảnh chăn và bỏ trở vào túi. Gã cũng bắt đầu dùng những giải của cái chăn còn lại để buộc chân. Gã vẫn níu giữ cây súng vì ở chỗ cất giấu bên sông Đir có đạn.
Đó là một ngày đầy sương mù, và ngày hôm ấy cái đói lại thức dậy trong gã. Gã rất yếu và bị chóng mặt đến nỗi đôi lúc hoa mắt không thấy gì. Bây giờ, đối với gã, vấp ngã không phải là chuyện không bình thường, và một lần bị vấp ngã, gã ngã trúng giữa một tổ gà gô núi. Có bốn chú gà con mới nở được một ngày, những đốm sống phập phồng, vừa một miếng, không hơn, và gã ăn chúng ngấu nghiến, nhét chúng vào mồm nhai sống nuốt tươi ràu rạu giữa hai hàm răng như nhai vỏ trứng. Gà gô mẹ lồng lộn quanh gã, kêu rầm rĩ. Gã dùng cây súng như một chiếc chuỳ để đánh nó, nhưng nó tránh xa khỏi tầm với. Gã ném ba hòn đá về phía nó và một hòn ngẫu nhiên trúng, làm gãy một bên cánh. Rồi nó chao chao chạy đi, kéo lê chiếc cánh gẫy, gã đuổi theo sau.
Mấy chú gà con chỉ làm cho gã thêm háu đói. Gã nhảy loi choi một cách vụng về với vết thương mắt cá chân, chốc chốc lại ném đá và kêu la khàn giọng, lắm lúc lại lặng lữ chạy lật đà lật đật, mỗi lần ngã lại hằm hằm bò dậy một cách kiên nhẫn, hoặc đưa tay lên dụi mắt khi cơn chóng mặt đe dọa quật ngã gã.
Cuộc săn đuổi đưa gã qua bãi đất lầy xuống đáy thung lũng và gã bắt gặp những vết chân trên lớp rêu sũng nước. Không phải vêt chân gã, gã có thể thấy rõ là thế. Chắc là vết chân Bil. Song gã không thể dừng lại, vì con gà gô mẹ vẫn chạy tiếp. Gã sẽ bắt nó trước, rồi quay lại dò tìm điều tra sau.
(Jack London)
(Còn tiếp)

 

Nhãn: ,

Tình yêu của Vincent Van Gogh – Danh họa Hà Lan (phần cuối)

Tình yêu của Vincent Van Gogh – Danh họa Hà Lan (phần cuối)

Open in new window
Sáng hôm sau, Kay bồng con về nhà cha mẹ mình. Van Gogh lẽo đẽo theo sau và chàng phải đụng hàng rào danh giá của gia đình Kay. Cha mẹ nàng nhìn chàng bằng cặp mắt khinh miệt. Đối với họ Van Gogh là một tên vô lại, một kẻ giang hồ bệnh hoạn, một loại nửa người nửa ngợm đã làm nhơ bẩn cái kỷ niệm khả kính đối với người chồng đã mất trong tâm hồn con gái mình.

Họ càng kinh tởm khi thấy Van Gogh chứng tỏ tình yêu bằng một hành động điên rồ. Van Gogh úp lòng bàn tay lên ngọn lửa của cây nến đặt giữa nhà, gương mặt bình thản, thanh khiết như một thiền sư đã mặc khải chân lý, không còn nỗi đau về thể xác.

Hành động kỳ hoặc của Van Gogh thăng hoa thành mặt trời tỏa sáng trong tranh, nhưng lúc này, mùi thịt người cháy khét làm cả nhà rúng động. Kay ngất xỉu trên tay mẹ nàng, cha Kay tỏ ra giận dữ hơn là thương xót, cảm thông chàng.

Để chấm dứt hành động man dại đó, cha nàng nói với Van Gogh rằng Kay ghê tởm chàng. Van Gogh không nói một lời, chàng lần lượt nhìn từng người, ánh mắt tuyệt vọng khi thấy Kay kinh hoàng, co rúm thân người trước cái nhìn của chàng. Van Gogh bỏ đi.

Chàng lấy chiếc khăn quấn chung quanh bàn tay cháy sém, thất thểu lang thang giữa trưa hè nắng gắt, bóng chàng cô đơn trên mặt đường, và đằng kia, một quán rượu đang chờ chàng. Ma đưa lối quỷ dẫn đường, xô dạt Van Gogh vào một cái quán vắng tanh. Chàng ngồi xuống ghế, lưng dựa vào vách, trước mặt chàng là một người đàn bà đang úp sấp trên mặt bàn, thỉnh thoảng thân hình giật nảy theo từng cơn ụa như muốn nôn thốc mọi thứ trong bụng ra.

Trước mặt người thiếu phụ say mèm kia, lăn lóc những vỏ chai và ly không còn một giọt rượu. Van Gogh bỗng thèm khát một tình bạn, một sự đồng điệu giữa những kẻ không thăng bằng. Chàng lê bước đến bàn của người thiếu phụ, đặt ly rượu của mình trước khuôn mặt vô hồn, đầu tóc rối bù của một hình hài như con ma đói. Câu chuyện mở đầu của kẻ xa lạ ngắn ngủn, trơ trẽn và khinh bạc :
-Trông em có vẻ khổ sở quá, sao thế em ?
-Cuộc đời …
-Cuộc đời thế nào… ?
-Chó má. Nếu cần cho anh biết thêm. Tôi phải lao đầu xuống vũng bùn để nuôi một đứa con hoang. Làm đĩ, nói văn chương hơn là làm nai móng đỏ, hoa gốc cây, làm bò lạc… ha ha … đời đểu giả, bọn đàn ông khốn nạn… ha ha …

Người đàn bà ngửa mặt cười vang, nước mắt chảy xuống khuôn mặt phấn son lem luốc. Van Gogh nốc cạn ly rượu, chàng muốn cười như người đàn bà kia, nhưng mọi cảm giác chợt lắng xuống trước nỗi khổ của con người. Van Gogh cảm thương số phận bụi bờ của người thiếu phụ và tự thương hại mình. Định mệnh cay nghiệt đã quất lên tâm hồn của mỗi kiếp đời những vết hằn độc ác khác nhau, nhưng tất cả đều là sự bất hạnh.

Đồng cảnh thì tương lân, người thiếu phụ thấy bàn tay Van Gogh bị thương nên dìu chàng về nhà để băng bó. Chẳng mấy chốc, Van Gogh cảm thấy khó có thể rời Christine. Hai người sống với nhau và tiền trong túi Van Gogh bốc hơi nhanh chóng. Nghĩa tình vẫn tràn đầy, nhưng sự sinh tồn bắt buộc Van Gogh phải đi kiếm việc làm. Chàng đến thăm Mauve, một người anh bà con. Mauve là một họa sĩ nổi tiếng, sống dư dật bằng cọ sơn với những hợp đồng khổng lồ. Tranh của Mauve bán đắt như tôm tươi và giá cả của nó chỉ có giới thượng lưu mới đủ khả năng sờ mó tới.

Mauve vẽ tranh giống y như thật, cánh đồng trong tranh sống động như một bức hình chụp rõ ràng. Mauve tiếp người em họ với vẻ mãn nguyện của kẻ thành đạt bằng tài năng của mình. Khi Van Gogh đưa tranh của mình cho Mauve xem. Mauve chờ đợi với tâm lý sẽ thấy nét vẽ ngây ngô của một kẻ nhà quê. Nhưng dưới lớp than nguệch ngoạc kia, Mauve lại nhận ra dấu hiệu của một thiên tài. Ông không thích lập dị, nhưng hiểu rằng đứa em họ quái đản của ông sẽ tạo ra những tác phẩm để đời. Mauve cho Van Gogh vài hộp màu và ít tiền. Mauve khích lệ chàng nên tiếp tục vẽ tranh và nghiên cứu cách thể hiện tinh tế hơn, nhưng phải tìm con đường sáng tạo riêng, không trùng lập với những khuynh hướng nghệ thuật tạo hình trước đấy.

Van Gogh cảm động, từ giã ông anh họ rồi trở về. Chàng bắt Christine và đứa con của nàng ngồi làm mẫu cả ngày. Chàng vẽ như một kẻ điên chạy khắp cánh đồng. Chàng ôm giá vẽ ra đường phố, chạy vào quán rượu. Bất cứ hình ảnh gì tạo được xúc động, Van Gogh đều muốn ghi cả lên tranh, muốn phơi bày đời sống con người, thiên nhiên lên mặt vải bằng những mảng màu chắc khỏe, diệu kỳ mà ma quái.

Hình ảnh một người nông dân ăn khoai xuất hiện trên khung vẽ phải như thế nào ? Van Gogh muốn vẽ bàn tay người đó, chính bàn tay chai sạn kia đã làm ra củ khoai và giờ đây đang hưởng giây phút hoan lạc do chính sức lao động của mình. Vì ở đó, chính là đời sống.

Ở mãi một chỗ cũng sinh nhàm, thỉnh thoảng mối tình đầu tuyệt vọng hiện lên khiến Van Gogh vô cùng bứt rứt. Chàng muốn đi xa để tìm cảm hứng sáng tạo và quên lãng quá khứ yêu đương. Van Gogh đến Paris và Toulouse, cuối cùng chàng dừng chân ở Arles. Và vùng đất này khiến Van Gogh phải thốt lên : “Ôi mặt trời tươi đẹp, mày làm tao đau đầu, và tao không ngờ người ta trở nên điên vì mày !”. Mặt trời vàng óng, lung linh trên đầu cây ngọn cỏ là cảm hứng thể hiện trên nhiều bức tranh của Van Gogh.

Thỉnh thoảng ông anh họ Mauve gửi cho chàng ít tiền và Théo cũng không quên Van Gogh, hàng tháng chàng nhận được tiền cấp dưỡng của Théo. Phần lớn số tiền Van Gogh dùng để mua vải và màu nên cuộc sống của chàng và Christine luôn bị cái đói đe dọa. Những trận cãi vã diễn ra hàng bữa vì đồng tiền cứ thiếu trước hụt sau. Nhưng Van Gogh chẳng màng đến, mỗi lần chàng cầm cọ sơn là chàng quên hết những lụy phiền, đời đã có một ý nghĩa khác và lớn hơn nhiều rồi.
Cuộc sống cứ thế trôi đi. Nhưng Christine và Van Gogh lại va chạm nhau dữ dội vì sự túng quẫn. Sau một trận cãi vã kịch liệt với Christine, Van Gogh nhận được điện tín báo tin cha chàng đang bệnh nặng, Van Gogh quyết định trở về nhà. Christine bồng con tiễn chàng ra nhà ga. Hai người im lặng đi bên nhau, lòng buồn rười rượi. Chàng bịn rịn chia tay, bồng đứa bé hôn như không muốn rời. Christine nhìn chàng, nói trong niềm u uất :
– Trở về rồi anh sẽ không còn gặp em đâu.
Van Gogh chợt nghe lòng mình lắng xuống. Chàng nhìn nàng không oán ghét, thù hằn và nàng cũng thế. Trái tim người đàn bà chai sạn hơi hám đàn ông vẩn rất cần một chút gì đó, một sự le lói của ánh đèn trong đêm thâm u, lạnh lẽo.

Nàng yêu Van Gogh, một thứ luyến ái thuần túy tinh thần. Nàng hiểu chàng, hiểu cuộc đời dâu bể với những thăng trầm của nụ cười và nước mắt.

Van Gogh về đến nhà, đội lên đầu vành khăn tang tiễn người cha khả kính đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Một thời gian sau, Van Gogh lại xách giá vẽ đi rong ngoài đồng. Những cuộc mộng du man dã đến chân trời nghệ thuật của Van Gogh không một con chiên ngoan đạo nào có thể tìm thấy ở nhà thờ. Nhưng tiếng sét mỉa mai, tàn nhẫn của dư luận lại ập đến với chàng. Người ta tránh Van Gogh như tránh một con quỷ. Cả gia đình cũng bị vạ lây. Cô vợ sắp cưới của Théo không dám giao thiệp với gia đình Van Gogh nữa. Théo đau khổ cùng cực, nhưng chàng hiểu người anh đáng kính của mình, con người “bất bình thường” đó nào có hại ai. Tại sao người ta quan tâm đến những gì xảy ra chung quanh khi nó không phương hại đến quyền lợi vật chất hay tinh thần của họ? Một con người trong cộng đồng xã hội như Van Gogh đã đắm say với nghệ thuật là một cách sống tội lỗi hay sao ? Théo vẫn một lòng tận tụy với anh mình. Nhưng Van Gogh buồn bã ra đi. Lần này chàng quyết định dấn thân suốt đời trong hội họa, Van Gogh tìm đến các bậc danh họa nổi tiếng như Picasso, Monet, Gauguin. .. Tất cả trình bày cho chàng những lý thuyết riêng trong cách tạo hình của họ. Những nghệ sĩ của trường phái “ấn tượng” này gây cho Van Gogh quá nhiều hoang mang. Chàng tự hỏi rằng như thế, họ có quên ghi và quên nhìn cuộc sống trước mắt họ không ?

Suốt mấy đêm sau đó, Van Gogh thức trắng bên giá vẽ, cố thể hiện những gì chàng nghe các họa sĩ kia nói. Đôi khi trong giấc ngủ chập chờn nửa đêm, Van Gogh tốc mền ngồi dậy bởi một tiếng réo gọi trong tiềm thức. Chàng vẽ và suy nghĩ miên man. Van Gogh gửi thư cho Théo và Théo trả lời rằng :
“Trong hội họa, anh bắt chước người khác như thế là lầm, nếu anh muốn tìm được nét độc đáo trong tranh. Cứ nhìn rồi vẽ, đừng lo gì đến ý kiến của người khác”.

Thế là Van Gogh tìm một con đường sáng tạo cho riêng mình. Tranh của chàng được triển lãm trong phòng tranh của Théo, những hình thể màu sắc mà sau này người ta gọi là trường phái “dã thú” (Fauvisme) đã gây nên những trận cười chế nhạo của giới tài tử thời bấy giờ. Họ cho rằng tranh của Van Gogh là sự nhục mạ cho giới hội họa. Tuy nhiên, vẫn có người can đảm dám trưng bày các bức tranh quái lạ, mới mẻ và dễ gây mầm phản đối của Van Gogh. Đó là ông Tanguy, một người mà Van Gogh hy vọng nhiều nhất. Chàng mang một bức tranh đến thăm ông Tanguy.

Khi chàng đến, một nhóm họa sĩ đang tranh luận sôi nổi về ý nghĩa đích thực của hội họa. Van Gogh đưa bức tranh của mình cho đám họa sĩ xem. Lại những lời phê bình khiến Van Gogh phải chạnh lòng. Ông Tanguy an ủi chàng, còn họa sĩ Gaugin thì gật gù, chỉ có Gaugin cho là đẹp và khen chàng đã dũng cảm đi con đường riêng, không chạy theo những thuyết lý mới của đám họa sĩ muốn lên mặt dạy đời kia. Thế là một tình bạn nảy sinh bất ngờ!.

Van Gogh trở lại vùng Arles, mướn một căn phòng trọ giá 8 quan. Chàng gởi thơ xin Théo mua cho chàng “màu xanh tươi, màu xanh của xứ Prusse, tất cả màu vàng, từ màu da cam đến màu vàng vỏ chanh, màu son và màu trắng kẽm”. Chàng nhận được 50 quan mỗi tuần do Théo gởi. Nhưng con ma vật chất vẫn hành hạ chàng. Do tiền trợ cấp trút gần hết vào sơn và vải nên Van Gogh phải nhịn ăn ba ngày trong một tuần. Nhiều lần trong lúc vẽ, Van Gogh xây xẩm mặt mày, té xỉu vì đói. Nhưng con người kiên trì với nghệ thuật vẫn tiếp tục cuộc hành trình về đất Thánh. Chàng đi khắp miền Crau, Saintes Maries de la Mer. Dưới bầu trời miền Bắc, mỗi ngày chàng ra đồng ghi lại trên tranh ánh sáng nhiệm màu của vầng thái dương. Chàng linh cảm rằng nơi đây có nhiều ánh nắng chói sáng nhất trên hành tinh này. Cả một sự bùng nổ ánh nắng chói loà trong tranh. Nắng trên ngọn cỏ, trên lá, trên hoa, trên nền đường đá, trên mái ngói đỏ rực, Chàng vẽ mặt trời. Và chính mặt trời cũng say vì ánh sáng của nó.

Những người nông dân ở Arles thường thấy Van Gogh vẽ khi màn đêm buông xuống trên bờ sông Rhône. Trên nón Van Gogh thắp đầy đèn cầy để lấy ánh sáng, chàng chống lại cơn đói, chóng lại cơn buồn ngủ đang kéo mí mắt chàng xuống và chịu đựng luôn cả sự mệt mỏi do suốt nhiều giờ đứng làm việc liên tục.

Van Gogh làm việc phát khiếp, nhưng tranh chàng bán chẳng ai mua, cũng chẳng ai buồn để mắt đến. Một hôm, bà chủ nhà trọ đến đòi tiền nợ, chàng không còn một cắc dính túi, thế là phải khăn gói ra đi, sống lang thang ở vỉa hè nhà người. Thời may, lúc Théo gởi tiền đến, Van Gogh gặp một anh phát thư tốt bụng giới thiệu một căn nhà rộng cho chàng mướn, giá 15 quan mỗi tháng. Căn nhà mới của Van Gogh chẳng mấy chốc đã trở nên bừa bãi, chàng trở thành một sinh vật sống say ánh nắng hắt từ bên ngoài cửa sổ vào. Van Gogh say sưa vẽ, khổ hạnh như một thiền sư, ép xác như một tên tù, hối hả và ray rứt như sợ không có đủ thì giờ để hoàn thành những gì chàng dự định.

Sự cô độc vẫn ám ảnh Van Gogh song song với hội họa. Chàng muốn có bạn bè đồng điệu nên mời những họa sĩ ấn tượng đến nhà chơi và gọi căn nhà mình là “Nhà của các bạn”. Nhưng chỉ có một người đáp lại thiện chí của chàng là Gauguin.

Anh chàng vạm vỡ và rất to mồm đó hãnh diện và tự tin ở tài mình, với ý nghĩ chế ngự, Gauguin đến nhà Van Gogh năm 1888. Van Gogh tiếp bạn như tiếp một vị thánh sống, đưa bạn đi xem phòng tranh của mình. Gauguin cảm thấy buồn cười khi đọc dòng chữ khắc tay của Van Gogh “Tôi là Đức Chúa Thánh thần, tôi có tinh thần lành mạnh”.

Tối đến, hai người sánh vai nhau bách bộ trên đường phố Arles và chui vào một quán nhậu, Gauguin là một kẻ giang hồ lãng tử, đã từng lê gót giày đi khắp xứ, không ngần ngại trước bất cứ việc gì, kể cả chuyện choảng nhau. Van Gogh tỏ vẻ cảm phục nhìn dáng nghênh ngang, ngật ngưỡng của Gauguin đi trên phố. Hai kẻ say đời say tình, chân nam đá chân xiêu trở về nhà, đánh một giấc ngon lành, kỷ niệm vui cho ngày đầu kết bạn.

Sáng hôm sau hai người xách giá vẽ ra đồng. Van Gogh để ý xem bạn mình sung sướng thế nào khi tiếp xúc với thiên nhiên. Nhưng Gauguin tỏ vẻ thờ ơ lãnh đạm. Mặt trời, cỏ cây, con người lao động chả gây chút hứng thú nào cho anh chàng này. Gauguin chỉ thích họa những giấc mơ và kỷ niệm của mình. Khi nghe Van Gogh say mê nói về cảnh lao động, Gauguin bật cười :
– Nếu anh biết tôi đã làm những gì, nếu anh biết tôi đã từng làm phu bến tàu, nếu anh đã làm việc nặng nhọc của kiếp ngựa kéo xe, anh sẽ không quý trọng sự làm việc đến thế.

Van Gogh phản ứng ngay :
– Tôi không quý trọng cũng không gớm tởm công việc lao động tay chân. Nhưng tôi muốn ghi lại sự sống qua hình ảnh đó. Còn những thứ trong tranh của anh, tất cả đều trống rỗng, nhạt phèo.
Thế là sự cãi vã bùng lên quyết liệt. Nhưng hai người cố gắng nhường nhịn nhau, chấp nhận tương đối cá tính và sự suy nghĩ của nhau.

Và một ngày kia, như một ung nhọt lâu ngày bể miệng phun mủ, Gauguin không thể chịu đựng cuộc sống địa ngục như thế này nữa, Van gogh cảm phục Daudet, Ziem, Raphael, Degas thì Gauguin lại nổi khùng.

Ngày nọ, hai người đang vẽ trên cánh đồng, bỗng một cơn gió thổi ào đến, gió càng lúc càng dữ dằn hơn, cuốn phăng giá vẽ của Gauguin đi khiến chàng chửi bới om sòm cái phần đất chết tiệt đó. Trong lúc ấy,Van Gogh say sưa vẽ, ôm chặt giá vẽ chống lại cơn gió quái ác, chống lại tất cả. Gauguin vùng vằng bỏ về. Van Gogh chỉ nơi để tiền mà Théo vừa gởi đến cho chàng.

Đến chiều Van Gogh mới về nhà. Chàng thấy Gauguin đang soạn quần áo xếp vào valise. Van Gogh van xin Gauguin đừng bỏ mình sống trong cô độc, nhưng Gauguin nhất định không nghe. Bởi vì mấy ngày trước, mầm mống bất hoà giữa hai người trong quán “Café de Nuit” đã quá sức chịu đựng rồi. Van Gogh đem khoe với Gauguin bức tranh vẽ ba cây đèn như những mặt trời. Gauguin chế nhạo đường nét và ý tưởng của Van Gogh. Thế là cơn điên trổi dậy, Van Gogh liệng cái ly đang cầm vào mặt Gauguin.

Gauguin né đầu tránh và bỏ về nhà. Chiều nay, chàng dứt khoát ra đi bỏ mặc cho Van Gogh hết lời dịu ngọt. Khi đóng nắp valise lại, Gauguin nghe tiếng động, chàng ngoái đầu nhìn ra sau. Van Gogh mắt trừng trừng ngầu đỏ, trên tay lăm lăm một con dao cạo sáng ngới. Hai người nhìn nhau, mắt toé lửa. Gauguin nghĩ rằng Van Gogh đang đau buồn vô hạn, vì quá sợ cô đơn nên chàng phản xạ một cách điên loạn như vậy, Lưỡi dao hạ xuống, những ngón tay cầm dao lỏng ra, một tiếng cạch khô khan rớt trên nền nhà, Van Gogh úp mặt, chạy vào phòng riêng….

Nhưng trong phòng Van Gogh vẫn tràn ngạp ánh nắng chói chang, vàng rực như đổ lửa. Sức nóng trong căn phòng hầm hập làm quay cuồng đầu óc Van Gogh. Tia nắng quái ác xuyên vào mặt, chạy vào trái tim chàng khiến chàng quờ quạng. Cơn sốt đang hành hạ chàng, cơn điên làm chàng bốc lửa. Đầu chàng như sắp nổ tung ra, ngón tay cấu lại như không thể ghi được trên tranh cái ma lực ghê gớm của ánh nắng đang đè bẹp óc chàng. Mắt trừng to, tóc dựng ngược, hình ảnh phản chiếu trong gương là hiện thân của một con vật quái đản. Để chấm dứt ảo tưởng về cây thánh giá đã từng hành hạ chàng, để quên tiếng gào của nắng, của lá cây ngoài vườn, của gió lùa vào căn phòng tịch mịch, Van Gogh tự cắt tai trái của mình, một đường ngọt sớt và máu phun ra xối xả. Hành động như một cái máy vô hồn vô cảm, Van Gogh lau khô vành tai, gói lại trong một tờ báo rồi để lên bàn.

Sáng hôm sau người ta thấy chàng nằm chết giấc trên vũng máu khô bám đầy ruồi. Chàng còn sống quả là một phép lạ. Cái tin chàng nổi điên xén vành tai loan nhanh như một vệt dầu trên dòng sông dư luận ớ Arles. Thấy họa sĩ điên xuất hiện, bọn đầu đường xó chợ cười nhạo ồm lên và lấy đá liệng vào người chàng. Chưa bao giờ Van Gogh khổ sở, buồn đau như vậy. Chàng trùm hai cánh tay lên đầu tránh trận mưa đá phủ phàng, chệch choạng bước về nhà, ngã vật xuống chiếc giường và giờ đây, nỗi cô đơn khiến chàng run rẩy. Hồi lâu, bật người ngồi dậy, Van Gogh cầm tờ giấy báo có gói vành tai của mình, chàng lảo đảo ra đường tìm đến nhà một cô gái điếm quen, chàng nói :
– Đây là kỷ niệm của tôi, em Gaby ạ !

Nắng. Nắng chói chang trên cành lá, xuyên qua mái nhà thờ, phả từng luồng điện nghiệt ngã, đâm thẳng vào mặt Van Gogh, khiến chàng thét lên, đầu óc quay cuồng và cơn điên chợt nổi lên. Van Gogh đập phá bất cứ cái gì xuất hiện trước mặt. Người ta quay lại, vật ngã Van Gogh xuống lòng đường, trói chàng lại rồi chở chàng vô nhà thương điên ở Arles.

Hay tin chàng điên, Gauguin bỏ đi, không hề quay lại và đó là lần cuối cùng của ba tháng bạn bè mà Van Gogh cứ ngỡ là vĩnh cửu.

Suốt mấy tuần liền, Van Gogh nằm như một xát chết trong căn phòng dành cho bệnh nhân điên nặng. Thế giới loài người xa xăm quá. Căn phòng thâm u thỉnh thoảng vang lên tiếng xích sắt trói tay chân của những người điên. Nắng. Con quỷ ánh sáng lại ám ảnh chàng. Van Gogh la hét điên cuồng, đầu đập vào vách tường bất tỉnh.

Khi mở mắt ra Van Gogh cố gắng tìm cách tự chủ, ổn định tinh thần trong sự yên tĩnh. Bên ngoài khung cửa sổ nhà thương điên, những cành olive, những đám cây mồng gà rập rờn theo gió, những thảm cỏ xanh mượt tít chân trời đã xoa dịu thần kinh của Van Gogh.

Người ta trả tự do cho Van Gogh sau 15 ngày chàng nghiến răng chịu đựng những cơn động kinh co giật. Nhưng tự do khiến chàng còn đau đớn hơn lúc vật vã trong nhà thương điên. Khi Van Gogh về nhà, lũ con nít hàng xóm leo lên các nhánh cây chung quanh nhà chàng, leo qua tường cất tiếng cười chế giễu và ném đá vào người điên “Cắt vành tai”.

Cả thành phố xua đuổi Van Gogh, 85 chữ ký đề nghị chính quyền bắt giam chàng vì sợ rằng chàng sẽ gây những hậu quả tai hại khôn lường cho họ. Van Gogh buồn chán quá. Thế giới loài người ơi ! Đâu là trái tim đỏ thắm tình người. Chàng trở lại nhà thương điên để trốn tránh những tia nhìn ghê tởm.

Nơi đây, Van Gogh nói với vị bác sĩ khám bệnh cho mình rằng “Tôi đã được học miễn phí trong một trường đại học bần cùng lớn nhất”. Mấy ngày sau, Van Gogh lẻn vào phòng riêng của vị bác sĩ này, định cắt cổ ông ta nhưng ông ta may mắn thoát kịp. Khi bình tâm, để tỏ lòng hối hận. Van Gogh tặng ông ta một bức tranh vẽ chân dung của mình. Nhưng số phận bức tranh cũng đen đúa như cuộc đời chàng. Vị bác sĩ đem nó che một lỗ hổng trong chuồng gà của ông ta.
Một bà phước tình cờ thấy chàng vẽ tranh. Nhìn cánh đồng cỏ tràn ngập ánh nắng trong đó, bà phước hỏi chàng thì chàng trả lời với nụ cười bí ẩn :
-Tranh này tượng trưng cho cái chết. Nhưng là cái chết thật đẹp. Bà xem đây, tràn ngập ánh nắng vàng mơ…

Mấy ngày sau, người ta cho phép chàng ra ngoài vẽ tranh. Vài cơn điên lại đốn ngã chàng. Sau đó người ta gởi Van Gogh đến bệnh viện của bác sĩ Gachet ở Auvers.

Nơi đây Van Gogh sáng tạo những bức tranh trác tuyệt của đời chàng. Van Gogh không trở về căn nhà màu vàng của mình nữa, nơi đã chứng kiến sự nở hoa huyền bí trên bức tranh “Hoa hướng dương” nổi tiếng của chàng.

Năm tháng trước đêm Giáng Sinh năm 1888, lúc người bạn Paul Gauguin bỏ đi, Van Gogh đã đem tất cả sự cô đơn, tuyệt vọng của mình vào bức tranh “Hoa diên vĩ” bất hủ. Chàng rời bệnh viện và nguyện giam mình trong tu viện Saint- Paul De Mausol ở Saint- Rémy De Provence.

Van Gogh cho rằng bức “Hoa diên vĩ” là “chiếc ống thu hồi của bệnh tình chàng”. Bức tranh kỳ dịêu đến nỗi nhà doanh họa Manet ngạc nhiên thốt lên : “Làm sao mà một con người vào lúc ấy lại có thể yêu hoa và ánh sáng, lại có thể vẽ được tuyệt vời đến thế, loại người đó có đau khổ đến thế vậy không ? Bức tranh vừa co quắp vừa lóng lánh, trên đó có một vệt trắng xuất hiện như một niềm hoài vọng về sự yên bình không bao giờ đến, để phá ra một sức mạnh tương đương với nỗi tuyệt vọng mà Van Gogh khêu gợi”.

Sau một lần chàng lên cơn điên loạn, người ta lại chở chàng đến bệnh viện ở Auver-sur-Oie. Nơi đây, chàng tự lắng nghe lòng mình. Chàng hiểu khi quá say mê , khi đặt cả tâm hồn vào bức họa, chàng là một người điên tỉnh táo hơn cả những người có lý trí bình thường.

Ngày 20 tháng 7 năm 1890, vào lúc trưa nắng gắt, Van Gogh đang vẽ trên cánh đồng. Nhưng chàng không ngờ cơn động kinh cuối cùng đã xô đẩy định mệnh chàng đến bờ vực thẳm. Lần này tàn bạo và phũ phàng hơn. Trước mặt Van Gogh là cánh đồng lúa vàng đã gặt xong, từng bó lúa cột chặt nằm lăn lóc trên nền rơm rạ. Tranh của chàng rực rỡ màu vàng nắng và màu xanh thẳm dịu dàng của bầu trời. Nhưng bỗng một đàn quạ đen bay đến, tông vào tranh, bấu vào đầu Van Gogh như báo cho chàng biết đời chàng không có lối thoát. Đàn quạ bay vọt lên cao. Chàng nhìn bức tranh màu be bét. Đàn quạ lại bổ xuống, chàng đưa hai cánh tay quờ quạng xua đuổi chúng rồi ôm lấy đầu. Chợt Van Gogh nhúng cả cây cọ vào màu đen, quệt từng bệt nhớp nhúa, ghê tởm vào bức tranh như một đàn quạ vần vũ trên trời xanh lơ. Chàng vẽ liên hồi những vệt đen thẳm. Đàn quạ bổ xuống đầu chàng, kêu thét rền rĩ những âm thanh chi chít quái dị.

Môi Van Gogh mím lại rướm máu. Ván bài quyết định đã đến hồi kết thúc. Van Gogh đã hiểu mình đã thua cuộc đời.

Chàng lao về gốc cây, móc súng lục trong túi ra, chĩa thẳng vào ngực, một tiếng nổ chát chúa khô khan vang lên, khiến đàn quạ bay tán loạn. Nắng. Nắng chói chang chiếu xuống đôi mắt lờ đờ. Máu. Máu thấm ướt đỏ quần áo Van Gogh, trào sôi trên khuôn ngực phập phồng. Bức tranh “Đàn quạ đen trên đồng lúa vàng” đã hoàn thành trong cơn hấp hối của Van Gogh.

Khi Théo chạy đến thì Van Gogh đã ngất lịm. Hai ngày sau chàng thở hắt lần cuối cùng trên tay đứa em thân yêu của mình, người đàn ông độc nhất biết thương xót chàng.

Kay ơi ! Christine ơi ! Gaby ơi ! Hỡi những người đàn bà một thời say đắm yêu thương ! Ai !? Ai !? Ai !? Người nào nhỏ những giọt nước mắt xuống tâm hồn kẻ suốt đời cô đơn và tuyệt vọng cùng cực kia.

Vương Trung Hiếu
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Tình yêu của Vincent Van Gogh – Danh họa Hà Lan (phần 1)

Tình yêu của Vincent Van Gogh – Danh họa Hà Lan (phần 1)

Open in new window
Vệt ánh sáng ngoài cửa sổ hắt vào vách tường làm nổi bật những mạng nhện đang mờ ảo trong làn khói thuốc. Ánh sáng cắt vách tường ra làm đôi, vùng tối bên trái của nó là bức tượng Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá bằng gỗ. Thân hình tiều tụy của Đấng Cứu thế dường như tan biến trong tăm tối, gương mặt Chúa buồn bã, in hằn nét đau khổ của mọi kiếp người. Bên phải là bức tranh sơn dầu hình thù kỳ dị. Mọi màu sắc âm ỉ sức nóng của sự sống, của vầng thái dương, những cánh hoa đỏ lấm tấm trên cánh đồng lúa mì vàng rực, nhưng tất cả không vực dậy niềm hoan lạc trong căn phòng lạnh lẽo chứa đựng một con người cô đơn, đói rét cùng cực.

. Van Gogh nằm vắt tay lên trán, thỉnh thoảng đưa tẩu thuốc lên miệng, rít thật mạnh và khói thuốc luồn nhanh vào buồng phổi, cuống cuồng sợ hải tìm lối thoát thân. Khói không thể đào tẩu theo đường hô hấp của con người, dường như nó len lỏi vào từng lỗ chân lông, bốc hơi qua mái tóc cắt ngắn, hóa thân thành những giọt nước mắt bất lực lăn xuống trũng mắt thẳm sâu, mệt mỏi và rớt vào những nếp nhăn trên gò má xanh xao của Van Gogh.

Trừng trừng, bất động. Đôi mắt thao láo như mắt của người chết oan ức. Cặp đồng tử căng ra, thu nhận vùng sáng tối phía trước. Mạng nhện, tượng Chúa, những cánh hoa và vô số hạt bụi nhảy múa trên vùng sáng quyện đầy khói thuốc. Làn mi không dám che khuất sự buồn thảm, nó như cánh buồm bị kéo lên bằng những sợi dây thần kinh căng thẳng của sự suy nghĩ miên man. Cha Van Gogh là một vị mục sư khả kính chỉ biết thờ phượng Chúa Trời và lúc nào cũng muốn Van Gogh quỳ dưới chân của đấng siêu nhiên ấy. Cánh cửa tu viện luôn rộng mở nhưng Van Gogh vẫn làm ngơ trước âm thanh quyến rũ của nhà thờ, lời cầu kinh huyền nhiệm, giọng thánh thót của tiếng chuông, tất cả chơi vơi, lạc lõng trên con đường chân lý của tâm linh Van Gogh.

Tuần lễ đầu tiên đến vùng Borinage xa xôi, hẻo lánh, giam mình trong căn phòng lạnh lẽo này, Van Gogh ngỡ mình đang rơi trên cầu thăng bằng xuống một dòng sông chảy xiết và đằng kia, hạ lưu của dòng nước là địa ngục. Chàng hiểu mình đang lao đầu vào những chuyện rồ dại, trái với khát vọng sống của mình.

Các nhân vật truyền giáo Tin Lành nhún vai lạnh nhạt khi được báo tin Van Gogh nóng lòng muốn gặp. Họ miễn cưỡng tiếp chàng và biết rằng chàng không bao giờ trở thành một mục sư thực thụ được. Van Gogh đứng trên bục giảng đạo thì con chiên của Chúa không tâm giao được với bề trên, họ cảm thấy cơn buồn ngủ xồng xộc kéo đến sau những lời nói ồ ồ, thô kệch của Van Gogh. Các nhà truyền giáo tiếp chàng vì cha chàng là mục sư. Họ đã quá biết chàng. Trước thiện chí và lòng say mê của Van Gogh, một người trong tim mang cả bầu nhiệt huyết và tràn ngập tình yêu như muốn bao dung cả nhân loại, họ đành phải chấp nhận. Nhưng bề ngoài của chàng thiểu não quá. Dáng người kín đáo, rụt rè, ăn nói cộc lốc, thiếu văn hóa, đôi bàn tay như rạn nứt không giữ yên được lâu một chỗ, mái tóc ngắn và bộ râu như nhuộm đỏ, cặp mắt có cái nhìn nghi kỵ như một con thú bị săn đuổi.

Vì thế, Hội truyền giáo gởi chàng đến Borinage như quăng một gánh nặng, một nơi dù giàu đức tin cách mấy, bất cứ vị mục sư nào cũng có thể nản lòng. Từ La Haye, Van Gogh khăn gói lên đường trong tâm trạng hân hoan và một tuần lễ nặng nề trôi qua đã cướp mất dần nghị lực của chàng.

Đúng là một địa ngục. Borinage tiêu điều, đầy khói và bụi than, chẳng có ai sinh sống ngoài đám thợ mỏ và gia đình họ. Trong sự nghèo đói và bần cùng, Van Gogh say sưa truyền bá thuyết nhân ái và lời ân sủng của Thiên Chúa cho đám người sống chui rúc dưới lòng đất. Nhưng không ai quan tâm đến lời rao giảng của chàng. Những lời của Van Gogh không phải là cánh cửa của thiên đường, mọi bày biện cám dỗ tâm hồn đối với họ đều hoàn toàn vô ích, họ chỉ thích nhấm nháp cà phê và ăn bánh mì.

Sống với đám người lao khổ này, Van Gogh cảm thấy sự cô độc đang giày xéo lòng mình. Không gian chung quanh là một thế giới xa lạ. Chàng muốn xoa dịu những nỗi đau khổ vật chất của lớp người dưới đáy xã hội ở Borinage, nhưng họ xem chàng như một anh hề múa rối, một hình nộm phát ra những lời vô nghĩa của mớ triết lý không có chất liệu từ bánh mì cà phê. Sự thành tâm của Van Gogh được đáp lại bằng những lời chế ngạo và nụ cười nửa miệng nghi ngờ.
Ánh sáng len qua kẽ lá rung rinh ngoài cửa sổ, vách tường chìm trong bóng tối, một vệt nắng chẻ đôi gương mặt Van Gogh, nửa phần dưới quai hàm bạnh ra, răng cắn môi ứa máu. Một con nhện đu đưa trước mặt chàng, treo lơ lửng trên một sợi tơ mỏng manh dính với trần nhà. Van Gogh thấy con vật điên khùng kia đang làm trò xiếc cười cợt sự ngu xuẩn của chàng, nó còn điểm để bấu víu trong không gian, đong đưa quen thuộc giữa thăng bằng và sự sống; còn Van Gogh, chàng té ngã giữa niềm tin và sự trống rỗng khủng khiếp. Van Gogh bật ngồi dậy, thổi phù vào con vật gớm ghiếc đang chứng tỏ khả năng lố bịch kia, con nhện bay một đường cong rồi vụt trở lại, sợi dây mỏng của nó đứt rồi, loài sâu bọ kia rơi xuống nền nhà, chạy biến vào gầm giường và lần đầu tiên nó hiểu thế nào là thế giới xa lạ, tối tăm của loài chuột, gián dưới nền gạch đầy bụi bặm và mùi ẩm ướt thoang thoảng xà bông, rượu và quần áo cũ.

Ngày hôm sau quá tuyệt vọng, Van Gogh van xin một người phu mỏ cho chàng biết lối sống thật của anh ta. Anh ta mỉa mai:
– Lối sống của chúng tôi ư ? Hừ, dưới kia không có ánh sáng mặt trời và cung cách nhàn tản của giới quý tộc. Chúng tôi làm việc như loài trâu ngựa.
– Tôi xuống hầm mỏ được không ?
– Được.

Hai người chui xuống hầm mỏ hẹp, vòng vèo khá lâu, sau đó cả hai đến trung tâm khu mỏ, quang cảnh nơi đây tràn ngập bóng đêm địa ngục và Van Gogh chợt hiểu tại sao họ gạt ngoài tai lời giảng của chàng.

Van Gogh thấy từng đám người lem luốc tranh nhau từng cục than trong đất, những đứa trẻ im lặng chạy như những bóng ma rách rưới, chui rúc như bầy chuột. Tuổi thơ của chúng bắt đầu từ hầm mỏ và trò chơi duy nhất của chúng là cướp trên tay nhau những cục than xù xì, những thứ đem đổi được bánh mì loại mạt hạng, khô cứng và mốc meo.

Van Gogh chảy nước mắt, chàng thương hại cho kiếp sống cùng cực của họ, lòng thương cảm chợt phát ra tín hiệu mới lạ, chàng hiểu rằng muốn đem ánh sáng bác ái và đức tin của Chúa đến giúp họ, chỉ còn cách là phải hoà đồng với cuộc sống của họ. Chàng trút tất cả đồng lương mục sư ít ỏi của mình cho họ, phân phát hết quần áo cho những kẻ rách rưới và khiêng chiếc giường ngủ của mình tặng cho những người đàn bà bệnh hoạn. Cả số tiền dùng để khuếch trương họ đạo, Van Gogh cũng tặng hết cho người nghèo. Từ đó, thế vào bộ áo nhà tu, Van Gogh khoác lên bộ đồ của con người hầm mỏ.

Ngày nọ, hàng trăm tiếng nổ long trời lở đất vang lên từ hầm than. Van Gogh đang ăn trưa, chàng tức tốc chạy lại và thấy cửa lò than bị lấp đầy, vùi chôn hàng đống thây người dưới đó. Chàng cùng với những thợ mỏ còn sống kéo những thân người trần truồng cháy nám đen từ trong hầm ra, an ủi gia đình kẻ xấu số. Mải đến tối mịt Van Gogh mới ngưng làm việc, buông mình mệt lả trên đống rơm thay cho giường. Tử thần cướp đi những người chất phác, hiền lành mà Van Gogh vừa hiểu được đó là những con người cần thiết nhất cho lời giảng so với đồng loại.

Thiếp lả trong giấc ngủ mệt nhọc, Van Gogh vẫn còn nghe tiếng kêu bi thảm, âm thanh văng vẳng từ địa ngục kêu gào sự sống, mắt chàng chứng kiến hàng chục sọ người trắng hếu, những cánh tay cháy đen, trụi như những thanh củi quơ quào trong không khí và nét đau khổ tột cùng của những người còn sống.

Một đêm khủng khiếp trôi qua, giấc mơ của Van Gogh không có Chúa chịu cực hình trên thập tự giá, không có nhà giảng đạo hay tiếng chuông giáo đường ngân nga mỗi sáng, chỉ có màu đen của cái chết cháy rụi, màu trắng của sọ người, nhầy nhụa óc và máu…

Một ngày kia, hai thanh tra của Hội truyền giáo đến thăm chàng. Họ vô cùng bất mãn khi gặp một người tóc tai rũ rượi, quần áo rách bươm, sống như một con vật với những mẩu bánh vụn trong một căn phòng không khác gì chuồng thú. Họ gằn giọng hỏi chàng đã làm những gì số tiền mà họ gởi đến. Van Gogh cố giải thích cho họ về nỗi khổ cực, bần cùng của đám phu mỏ. Và chàng đã dùng tiền để thoa bớt nỗi khổ tinh thần của lũ người dưới địa ngục kia. Hai vị thanh tra sống no đầy đủ đó, hai con người phục sức sang trọng phớt lờ mọi lời biện minh của Van Gogh. Họ cảnh cáo :
– Đức tính thứ nhất của một mục sư là phải làm cho người ta nể trọng. Hình như ông đã quên điều đó, bộ tịch của kẻ ăn mày như ông khó có thể hướng họ đến với nước Chúa được.

Van Gogh đứng phắt dậy, gương mặt dính đầy vệt than đá của chàng bừng nóng, con mắt dưới vầng trán đẫm mồ hôi và cái đầu óc rối bù bắn ra tia nhìn của loài thú dữ. Van Gogh lồng lộng quát tháo, hét vào mặt hai sứ giả có gò má trắng bệch, nưng nức thịt kia :
– Cút khỏi nơi đây ! Chúng mày là phường giả dối, đội lốt tu nhưng lòng không có chút tình người. Tao không chấp nhận kiểu Thiên Chúa ăn no đầy đủ và y phục tươm tất của chúng mày.

Chung quanh biết bao người đói rét, bệnh tật, chúng mày có nhìn thấy không ? Xéo ngay, cút cho khuất mắt tao!

Hai viên thanh tra sợ hãi lùi ra cửa, họ kinh hoàng trước thái độ và ngôn ngữ của Van Gogh, địa ngục đã che mờ Chúa Trời trong tâm hồn chàng rồi. Họ đã gởi phúc trình về giáo hội cấm Van Gogh không cho hành nghề mục sư nữa.

Chỉ có một người duy nhất thông cảm Van Gogh vào lúc này, đó là Théo, em chàng. Théo rất đau lòng về kiếp sống đọa đày của anh nhưng chàng không bao giờ trách móc anh mình, chàng hiểu và cảm phục Van Gogh ngay từ lúc còn nhỏ. Théo biết anh mình đang đi tìm cái gì giữa cuộc đời trăm dòng trong đục này. Sự bần cùng của Van Gogh không chỉ là bề ngoài, nó biểu hiện cho sự khánh tận niềm tin cả trong tâm hồn Van Gogh nữa.

Théo đến tìm anh ở Borinage. Chàng bước vào căn phòng của Van Gogh, bắt gặp ông anh mình đang quỳ dưới tượng chúa, khuôn mặt như kẻ đưa ma. Nghe tiếng động Van Gogh chậm rãi quay lại, không một nét vui nào khi gặp Théo, câu đầu tiên buông khỏi cửa miệng là một sự chán nản tột độ:
– Sự tuyệt vọng của nhân loại như một cái giếng không đáy, Théo ạ ! Anh không bao giờ tìm được dưới đó những gì anh muốn.

Théo ngồi im lặng, lắng nghe. Van Gogh đi tới lui trong phòng, giọng khích động theo từng cử chỉ quơ tay run rẩy. Chàng trút tất cả nỗi lòng mình cho đứa em thân yêu từ xa mới đến. Hồi lâu Théo mới đứng dậy:
– Ngày mai, anh về Hà Lan với em. Ba má sẽ giúp đỡ anh trong lúc ngặt nghèo này. Gia đình là chỗ dựa cho tâm hồn anh. Không có nơi nào đủ hơi ấm dung dưỡng tinh thần của người con xa nhà, về với em, anh Vincent, em van anh.

Tình cờ Théo thấy vài bức tranh nguệch ngoạc, những nét phác thảo của Van Gogh trong góc phòng bẩn thỉu. Chàng ngạc nhiên thấy dáng dấp đám phu mỏ đang làm việc trong tranh thật sinh động, những người đàn bà trên bãi than; đám trẻ ngoài đường phố toát lên không khí sinh hoạt của một vùng hoang dã nghèo nàn. Những hình ảnh đập vào mắt khiến chàng co thắt trái tim, cảm xúc lạ thường, và trong đầu Théo loé lên một tia sáng : biết đâu anh Van Gogh có thể thành công trên con đường hội họa ? Đằng sau những vệt ngoằn ngoèo kia chứa đựng một cái gì lạ lắm, tình yêu và sự sống âm thầm nhen nhúm trong những con người lao động lam lũ kia ánh lên một tia chớp của sấm sét, báo hiệu một cơn bão của tư duy nghệ thuật lạ lùng.

Théo đưa Van Gogh về nhà cha mẹ ở Hà Lan rồi tức tốc đến Paris, nơi đây chàng có một chỗ trưng bày và bán tranh. Théo mua ngay lập tức những vật dụng vẽ tranh cần thiết, gởi về liền cho Van Gogh.

Từ dạo ấy, Van Gogh tìm được lẽ sống mới. Chàng xách giá vẽ đi khắp các miền đồng bằng Hà Lan. Nếu trước đây Van Gogh tuyên bố với Théo rằng : “Chúa là một nghệ sĩ lỗi lạc nhất” thì lúc này chàng cảm thấy cần phải thông báo với Théo một điều : “Anh yêu hội họa tha thiết và anh nguyện sống chết với nó”.

Van Gogh lang thang trên bờ sông, dừng lại ngắm một người nông dân làm việc, hoặc ngắm một người thợ sửa xe trên đường. Chàng vẽ không ngừng tay, nhưng bị hành hạ bởi một cơn sốt không cưỡng nổi hoặc cái gì đó bên trong thôi thúc, khiến chàng phải chọn giữa hai cách giải quyết: chết hoặc vẽ.

Đầu đội nón rơm rộng vành, mình mặc áo da cừu, giá vẽ trên tay, Van Gogh lăng xăng chạy khắp đồng ruộng, điên cuồng với cảm hứng sáng tạo. Nếu ức chế nó chắc chàng ngã lăn ra tắt thở vì trái tim không thể chịu đựng được cơn co giật bất thường. Thấy một cảnh nào gây ấn tượng, dù trời mưa hay nắng, Van Gogh cũng dừng lại vẽ cho bằng đựơc. Thiên hạ hiếu kỳ nhìn Van Gogh lúc chàng lên cơn thần hứng, quên hết thực tại, chỉ còn màu sắc, đường nét và hơi thở tràn đầy sức sống toát ra từ khung vải. Người đời không cảm nhận được chàng là một họa sĩ. Dáng dấp đó không có vẻ thanh thoát, bay bổng của một nghệ sĩ đang đắm mình trong nghệ thuật mà là vẻ man dã của một con hổ đang say sưa xé xác con mồi dưới nanh vuốt nhọn hoắc của mình. Thực ra, Van Gogh đang chìm đắm, chơi vơi trong khoái lạc sáng tạo, một cảm giác hạnh phúc khiến chàng say sưa hơn cả lúc giảng kinh trước đám phu mỏ.

Đối với Van Gogh ý nghĩa của cuộc sống lúc này là sáng tạo, mà sáng tạo thì không có biên giới và tự thân nó đã có ý nghĩa rất lớn lao. Đại văn hào Pháp Romain Rolland rất có lý khi cho rằng :”Chỉ có một loại hạnh phúc thôi : đó là sáng tạo. Chỉ người nào sáng tạo người đó mới sống. Số còn lại chỉ là cái bóng chập chờn trên mặt đất, xa lạ với cuộc sống, Tất cả moị niềm vui sáng tạo : Tình yêu, thiên tài, hành động, những loại sức mạnh nảy sinh trong ngọn lửa của một khối lửa chung“. Và Van Gogh đang như một ngọn đuốc sống, hừng hực cháy với ánh sáng mà cả trăm năm sau người đời mới hiểu được đó là ánh hào quang nghệ thuật của một con người vĩ đại.

Một ngày kia, khi trở về nhà, ngồi vào bàn ăn, chàng gặp Kay, cô em họ vừa đến với cậu con trai nhỏ. Ánh mắt của người góa phụ cố che giấu sự buồn bã vì chồng chết trong một tai nạn bất ngờ. Mái tóc đen óng mượt và cái nhìn sâu thẳm của người đàn bà gợn một chút sóng lòng trong tâm hồn Van Gogh và chàng ngẫm nghĩ, phải chăng trước mắt chàng là một người trong tranh ? Chàng lơ đãng nói về chồng của Kay. Vẻ hồn nhiên đến độ tàn nhẫn của chàng khi nhắc về người đã khuất hơn một năm nay khiến Kay phát khóc.

Cha Van Gogh bất mãn, trách chàng bất nhã và độc ác, ông nói như giảng kinh giáo đường :
– Thỉnh thoảng con nên đến giáo đường hơn là cứ đi hoang suốt ngày ngoài đồng.

Van Gogh ngẩng đầu nhìn cha mình :
– Con không thích thờ phượng Chúa Trời của những kẻ giả vờ đội lốt nhà tu, trong khi lòng họ trống rỗng. Đối với con, Chúa Trời ở khắp nơi và người ta có thể thờ phụng ngài trong khi vẽ cũng như khi đến giáo đường nghe giảng kinh.

Cả gia đình hốt hoảng trước những lý lẽ phạm thượng của Van Gogh. Ông mục sư đứng dậy, kéo những đứa trẻ đi nơi khác để chúng khỏi nghe những lời của kẻ ăn nói bằng giọng của quỷ Sa Tăng, dù đó là con quỷ do vợ ông rút ruột đẻ ra.

Van Gogh vẫn ngồi bất động, chàng cứ tiếp tục nói, không cần ai nghe. Mọi người bỏ đi hết, chỉ còn Kay ngồi lại. Nàng lắng nghe nhưng tâm hồn mơ tưởng đâu đâu, hình ảnh người chồng quá cố lảng vảng trong tâm trí nàng. Những lời nói của Van Gogh vang động trong căn phòng tịnh mịch, trôi tuột vào hư vô. Người đàn bà trước mặt chỉ là cái bóng ma dật dờ tiếp nhận sự cuồng điên một cách hững hờ, lạnh nhạt.

Mấy ngày sau, Van Gogh cố tránh mặt cha mẹ nhưng mỗi lần gặp Kay, ánh mắt chàng lại sáng lên tia nhìn trìu mến. Chàng hiểu rằng người đàn bà kia đang lớn dần, đậm đặc màu sắc luyến ái, định hình trong trái tim chàng. Nàng đã đem lại cho chàng những tình cảm dạt dào, tự nhiên như khí trời mát dịu của sáng tinh mơ. Van Gogh xoắn xuýt bên nàng như đứa trẻ và đem khoe nàng những bức tranh chàng vẽ xong.

Mặc dù không am tường hội họa nhưng Kay vẫn thích bình phẩm theo cách cảm thụ của một người góa phụ sống trong xã hội trung lưu, có điều kiện làm quen với nghệ thuật. Và Van Gogh như một con chiên ngoan đạo, uống từng lời của nàng. Nhưng tâm tưởng của Kay luôn hướng về quá khứ, nơi mà nàng đã từng sống với người chồng bạc mệnh. Nàng không thể hiểu rằng chàng họa sĩ đang nuôi một giấc mộng tình quá lớn, thuần khiết và hoàn hảo như kết tinh từ chất liệu của viên kim cương.

Một ngày hè trên cánh đồng tràn ngập ánh nắng, Van Gogh tay cầm cọ sơn, run rẩy trước cánh đồng lúa vàng rực xa xa với những người nông dân đang lom khom nhổ cỏ. Chàng xúc động trước thiên nhiên và con người, nhưng hôm nay chàng không thể phân thân trong nỗi đam mê sáng tạo. Kay đứng kế bên ngắm bức tranh đang lộ dần những đường nét chính sinh động. Nàng không hiểu rằng Van Gogh cố gắng kềm chế cơn bão lòng. Bất chợt, Van Gogh quăng cọ sơn xuống lề đường, chàng quay sang Kay, ôm chầm lấy nàng. Kay giãy giụa xô mạnh chàng ra. Nàng chỉ thấy ánh mắt yêu thương và giọng lắp bắp van xin của chàng là cử chỉ và hành động của một kẻ động kinh điên loạn. Kay kinh hoàng chạy lại ôm con mình. Tưởng mẹ bị ăn hiếp đứa bé khóc thét lên.

Giống như thói suy nghĩ của giới trung lưu, Kay làm sao có thể hiểu được những cảm xúc thiêng liêng đang dâng trào trong tâm hồn Van Gogh. Tâm hồn nàng nhỏ nhen quá. Dưới ánh mắt bình thường, nếu không nói là tầm thường, của xã hội dầy đặc những định kiến thiếu tình người, Van Gogh trở thành một tên dâm đãng, vũ phu và ngờ nghệch. Vẻ dại khờ của một trái tim mơ mộng yêu thương khiến những người thủ cựu hoảng sợ và lo ngại cho danh giá của mình, cho hạnh phúc tương lai mình. Kay bỏ chạy về nhà Van Gogh, bỏ mặc chàng đứng như trời trồng trong tâm trạng ngổn ngang trăm mối tơ vò.

(Còn tiếp)
Vương Trung Hiếu
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Hồ sê líu hồ líu sê sàng (Vũ Trọng Phụng)

Hồ sê líu hồ líu sê sàng

Open in new window
Không ai có thể thấy một gia đình thứ hai nữa giống gia đình nhà danh họa Khôi Kỳ. Cứ cái tên của ông chủ cũng đã đủ ngộ nghĩnh rồi, nhưng có bước vào nhà ông này, ta mới thấy nhiều cái lạ. Có thể bảo rằng đối với nhà này, cuộc đời là một trận cười quanh năm.

Bất cứ đến lúc nào, ông còn đứng ngoài thềm ông cũng đã thấy văng vẳng đưa ra những tiếng đàn nguyệt như bổng, như trầm, hoặc tiếng cái nhị Sàigoòng rên rỉ

Nếu vào đến căn phòng làm việc của nhà họa sĩ, thì thật là một sự lạ lắm, nếu ông không thấy vỏ hạt dưa bắn tung tóe đầy sàn, vài cái đĩa còn thừa lác đác mấy miếng bánh khách, giấy bóng vỏ kẹo, hay mấy chai rượu ngọt chỉ còn ít cặn, hay cái áo “cào cào” vài đôi giày mang cá mới của các tiểu thư. ấy là không kể một đống ngổn ngang những sáo với hồ, những đàn với nhị, cái nào cũng đứt giây long phiếm, dựa lảo đảo vào một xó gác, một thành ghế, hoặc may lắm mới được treo cẩn thận trên tường.
Vì rằng Tuyết Nương với Bạch Vân đều là hai cô gái quý của nhà danh hoạ Khôi Kỳ đàn cũng hay, ca lại càng “não” lắm. Thật là những nàng tiên sa cõi thế, răng lóng lánh hơn mặt hoa tai đầm, nước da mịn hơn cả quần lụa trắng, tóc đen lay láy, có màu mun hơn cả khăn nhung.
Chính ra, Khôi Kỳ không có địa vị gì trong nhà, chỉ Tuyết nương và Bạch Vân mới là hai “bà” cầm quyền thay ông chủ.
Ông bố thường dậy từ lúc bà con hàng phố chưa ai nghe bánh Tây nóng, giời rét thì quấn thêm cái chăn dạ, khoác thêm cái áo dạ đã ra ngồi kẻ, đo, vạch, điểm trộn sơn, trộn thuốc để cho bà vợ quý với hai cô gái quý nằm ươn xác chờ đến giờ học buổi sáng được ra chơi. Ông tuy có tài nhưng chưa “ăn thua” gì cả. Ông vẫn còn nghèo lắm nên làm ăn rất chi chăm chỉ, những mong có một ngày kia… Một vài cuộc triển lãm của ông tổ chức với mấy anh em đã hứa cho ông con đường tương lai rực rỡ. Nhưng, vợ với con mà ông phải nai lưng ra nuôi một cách rất vất vả chỉ những bắt ông sắm khăn san, giầy mang cá, cũng khiến ông đủ “lệch nghiệp” rồi.
Bà vợ ông không nhúng tay vào một việc gì cả. Rất đẹp khi mới cưới, rất được nhiều người họ nhà chồng kính yêu chỉ vì cái sắc, bá tước còn tự hào là một người đàn bà đẹp, và, sau là một người đàn bà đẹp từ xưa! Đã là một người thuở xưa rất đẹp, nay bà chán hết mọi sự, chỉ còn biết mùa rét thì trùm chăn ngủ kỹ, nực đến thì gội đầu rồi xõa tóc ra quạt, đọc tiểu thuyết trên một cái võng lúc nào cũng kêu “kĩu ca kĩu kịt” mắc lê khắp gian phòng. Cho nên mỗi khi bà dúng tay vào việc gì thì cả nhà như một xứ nào gặp nạn động đất vậy.
– Con Vân! Cái kéo của tao để đâu rồi thế?… Ơi Tuyết! Cái đê với cuộn chỉ ở hòm mày đã vứt đâu?
Cứ nheo nhéo thế suốt ngày!
Rồi thì, Tuyết cũng như Vân, hai cô ùa nhau mở hòm, mở tủ. Sau một hồi rối rít tìm chìa khóa mới mở được thì chẳng thấy đâu là kim, đâu là đê, đâu là chỉ mà toàn mó phải những đũa, những thìa, những khuy áo, gương cũ, hộp sắt tây, lọ thủy tinh, không biết đứa khỉ nào đã nhét cả vào đấy, và cất đấy để làm gì !…
Cả mọi đồ vật bầy trong nhà cũng có một vẻ kỳ lạ lắm.
Cứ hai, ba tháng lại dọn một lần nên phòng khách cũng như phòng ngủ trông đều có vẻ “chưa bầy xong” hoặc “đến mai xếp dọn” của những nhà mới có việc bận rộn hôm qua. Vả lại, ai hỏi đến cái gì cũng không thấy cả thì còn bày biện cái quái gì? Miễn là ông bố vẫn tìm thấy đủ cái mũ, đôi giầy, bà mè: một cuốn tiểu thuyết Tam Hạ Nam Đường, hai cô con gái: phấn, sáp, khăn nhung. Miễn ra ngoài đường, bà con phải nhầm là nhà có của. Cánh cửa nhỡ hé mở người tò mò đi ngoài phố có thể nhìn trộm thấy cái tủ chè khảm nhưng mặt kính vỡ chửa có tiền thay. Hoặc trên bàn thờ, cái bát nhang sứt vì mèo nhảy đổ.
Có khi, ngồi vào mâm, đã cất đũa, ông bố mới sửng sốt tự trách rằng quên chẳng để dành tiền mua lấy cái liễn ủ cơm. Gặp khi nào hơn hai giờ mà hai cô gái quý mới thổi cơm xong thì chiều đến đã có lệnh của bà truyền rằng: “Mới ăn cơm từ lúc hai giờ chiều không phải thổi cơm, để chờ hàng phở tối”.
Một cảnh tượng rất thường nhưng nghĩ cho cùng, thật cảm động: bốn người cùng, kẻ ngồi, người đứng, bưng mấy bát phở vội húp sụt soạt ở ngay chỗ cánh cửa bước vào. Cầm cái khăn mặt bẩn như lau khăn bàn, ông bố húp vội chén nước rồi lại quay vào cắm cổ làm việc, chẳng kịp xỉa răng!
Trong cái cảnh bừa bộn vô trật tự ấy, cái thản nhiên, cái bình tĩnh của bà mẹ với hai cô thì thật là những kỳ công của tạo hoá! Trong óc mấy người này đều chứa những tư tưởng gì khác, chứ không tráng qua một tư tưởng nào về việc tề gia nội trợ bao giờ. Cho nên Tuyết Nương thì ăn vận theo gái Sài Gòn, còn Bạch Vân gái Huế. Còn bà mẹ, nằm chao mình trong võng, sống một cách uể oải với bộ truyện Phong thần mơ màng đến cái sắc đẹp thủa xưa.
Nhà danh họa Khôi Kỳ thì lúc nào cũng hớn hở tươi cười như đứa trẻ con được mặc áo đẹp.
Miễn sao lúc nào cũng được thấy bên tai khanh khách tiếng cười của hai cô con gái quý, ông bố có thể nai lưng ra làm việc, kéo cày trả nợ, nợ vợ, nợ con. Hễ cô con gái nũng nịu, thỏ thẻ bên tai “Cậu cho con mua cái san” (giẩu mỏ!) “Cậu cho con mua cái vòng” v.v… là ông bố gật đầu ngay, móc ví lấy tiền ngay, dù gạo ngày mai chưa trông được vào đâu cũng mặc!…
Cũng lắm khi các cô ngồi cần cù kim chỉ đấy, nhưng áo rách đến xả vai của bố cũng không thấy miếng vá, bít tất của bố thủng như rây bột cũng chẳng được sợi mạng, các cô chỉ biết thêu hàng trăm hàng nghìn những chiếc mùi xoa có cành hồng con bướm, để tặng những ai ai thì phải, chớ cũng không thấy để bán bao giờ.
Các ông, các bà có được hân hạnh lần nào gặp những cô gái quý, rất tân tiến ấy không? Nào có khó gì đâu, biếng việc nhà nhưng chăm chỉ việc người, những cuộc diễn kịch, diễn cải lương Nam Kỳ, việc nghĩa hoặc các buổi chợ phiên, đối với các cô không một dịp nào không dự vào ban tổ chức. Chỉ bởi thế, các cô vẫn phải muộn chồng.
Vì rằng cứ trông cái cảnh gia đình ra ngoài khuôn mẫu hàng nghìn vạn dặm của các cô, cứ nghe giọng bà mẹ của các cô sàn sạt, nheo nhéo cả ngày, thì dù trong đám công tử đã cảm giọng Nam ai, Vọng cổ hoài lang, Văn Thiên Tường của các cô, cũng có nhiều cậu muốn rước ngay các cô về nhưng phần nhiều đều ngại ngần, tự hỏi với tự dọa: “Có nên lấy nó làm người vợ quý của mình?” hoặc là “Nếu ta lấy nó thì rồi ta đến bố mẹ ta!…”.
Người tử tế làm ăn, đã không ai dám rúng đến rồi, mà cả cái bọn “mũ lệch vai so” cũng không mãnh nào dám rước. Đã đành là, đến nhà họa sỹ Khôi Kỳ nghe hát, nghe đàn là thú, là vui, là cảm lắm nhưng mấy ông tài tử Nam Kỳ đội mũ đỏ mực, quấn cái khăn quàng sặc sỡ, lê đôi dép Nhật, đàn hay, ca thạo, hút thuốc lá cũng thạo, đối với con mắt bọn này đã như đinh như gai… ấy là không kể trong khi mải vui nghe hát, nghe đàn, bọn này phải chịu cái khổ hình nghe cả tiếng võng kĩu kịt của bà ở phòng bên cạnh, trông thấy thấp thoáng bóng người, những cái vẻ mặt căm tức, giận dữ, định lấy tiền nhà tiền gạo, từ tháng trước thu xếp chưa xong. Các cô vẫn ế.
Được một lần có một anh chàng góa vợ, đứng tuổi, rất thích cảnh đời ra ngoài khuôn mẫu, vì cho sự lấy vợ chỉ là mua máy hát, đã định ngấp nghé (ái chà!…) mượn người tiến dẫn đến năm bảy lượt, nhưng vì thấy cảnh gia đình quá sức mình tưởng tượng nên trong lúc cô em gân cổ ca khúc Văn Thiên Tường trong bản tuồng Tam ban triền điển thì anh chàng lim dim con mắt liếc nhìn cô chị, phì phèo tẩu thuốc lá, nghe điệu đàn rồi vừa hát thầm, hoạ thầm, mà tự hỏi:
“Phải xem nó có ý y còn nguyên, nó còn nguyên…”.
Việc chàng lại bỏ dở…
Thế là Bạch Vân với Tuyết Nương vẫn cứ ế chồng, mà họa sĩ Khôi Kỳ được cảnh xum họp một nhà để tiếp khách toàn cầu, để méo mặt lo nợ, lo chạy gạo, chạy tiền bánh ngọt, rượu, chè tiếp rước các ông công tử Bắc Kỳ, tiếp rước các ông tài tử Nam Kỳ, và để lúc nào cũng được bên tai văng vẳng khúc đàn ròn của bài vọng cổ:
Hồ sê líu hồ líu sê sàng!

Vũ Trọng Phụng
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Một Cái Chết (Vũ Trọng Phụng)

Một cái chết

Bẩy giờ tối.
Open in new window
Hai chúng tôi, cơm chiều xong, vừa định thắng bộ vào dạo chơi loanh quanh mấy phố thì trời bỗng đổ cơn mưa như trút.
Phải bó cẳng ngồi nhà cặm cụi với mấy tờ báo, chúng tôi xem đã uể oải, mắt đã thấy mờ thì cửa vẫn khép chặt, bỗng có người đẩy đánh xầm một cái tung ra.
Giật mình, chúng tôi ngơ ngác nhìn lên thì một ông lão ăn mày vừa lòa vừa cụt chân, người quắt như con mắm nướng, áo tơi, nón lá, chống nạng lê vào.

– Lạy ông, lạy bà… bố thí cho con đồng cơm bát cháo trong lúc khốn cùng…
– Không sẵn! Đi đi!!! Cửa nhà người ta khép thế mà cũng đẩy ra được…
Đã bực mình sẵn, lại thấy ông lão xông xáo quá đáng thế, tôi không chút thương mà gắt rầm lên. Bạn tôi vội xua tay ngăn lại, đứng dậy, ra ân cần để vào tay ông lão một xu. Ông lão cúi rạp xuống đất tạ ơn rồi lủi thủi bước ra, để lại chỗ đứng một vũng nước dây ở cái áo tơi trút xuống. Bạn tôi cài then cửa rồi vào:
– Không bao giờ tôi nỡ đuổi một người ăn mày như anh đã đuổi.
Tôi mỉm cười một cách nhạo báng. Bạn tôi xưa nay vẫn hay giảng đạo đức, thuyết luân lý.
– Anh đừng tưởng chuyện đùa. Những chuyện rất thường mà đối với người ngoài cuộc, lắm khi có ảnh hưởng lại rất sâu xa. Một người ăn mày đến kè nhè bên ngoài. Người trong nhà chạy ra mắng đuổi hắt đi rồi đóng cửa đánh xầm một tiếng. Tưởng chẳng có chuyện gì bình thường hơn thế nữa. Thế mà cũng chỉ vì một chuyện đuổi ăn mày mà chính tôi đây, tôi đã được mục kích một tấn kịch rất đỗi bi thương.
Nói đến đó, bạn tôi ngồi xuống ghế, vớ lấy bao thuốc lá lấy ra một điếu đánh diêm châm, rồi tiếp.
Bên ngoài trời vẫn rả rích mưa to.
– Hồi ấy, cách đây sáu bảy năm trời, phải, sáu bảy năm trời rồi mà câu chuyện xảy ra tôi còn nhớ mồn một như mới hôm qua.
Năm mười sáu tuổi, học lớp nhất trường Hàng Vôi, tôi ở trọ phố Bờ Sông, nhà một thầy cai lấy thuế chợ. Con trai thầy mới lên mười một, học lớp dự bị, ngày ngày bốn buổi đi về có tôi dắt dìu. Tối đến dưới ngọn đèn dầu cũng tôi chỉ bảo.
Gia thế thầy cai tôi không được rõ. Vì có người quen mách giúp nên việc tôi đến trọ nhà thầy là việc ngẫu nhiên. Chỉ biết hôm tôi khuân hòm đến thì, trên chỏm mũ trắng điểm vành băng đen, thằng Hợi – con thầy – đã ngót hai năm trở mẹ.
Thằng Hợi! Tôi nhắc đến tên thì người, tôi cũng nhớ được ngay. .. Anh thử tưởng tượng xem, một thằng bé mới mười một tuổi đầu, mặt mũi sáng sủa, ăn nói lễ phép, đến trường học hành đã chăm chỉ, về nhà việc vặt lại hay làm. Thầy cai rất yêu quý con trai, sợ cảnh dì ghẻ con chồng, chuyện lấy vợ kế thầy không hằng nghĩ đến.
Nhưng xem ý tôi biết, thằng Hợi không yêu bố nó chút nào. Chắc anh cũng chẳng lạ gì, một đứa trẻ, rất ngoan mà không ưa bố, một người bố cũng thương yêu con như trăm nghìn người bố khác, chỉ vì cái nghề mà đến con đẻ rứt ruột nó cũng không yêu.
Anh thử tính xem, cái nghề mà cửa miệng thiên hạ vẫn nói… nó đầy đoạ con người một thời xông pha mưa nắng, chỉ vì bổn phận mà đối với người nghèo hèn, buôn thúng bán mẹt đã bị họ coi như kẻ tử thù.
Mỗi lần thầy cai đi “sơ vít”qua cửa trường Hàng Vôi là lại một phen thằng Hợi khóc. Nó khóc vì nó chẳng đang tâm trông thấy bố nó thẳng cánh đánh đập một bà lão bán bún hay đá túi bụi một thằng bé con cho hòm kẹo đổ xuống đất tung tành, nó khóc vì bạn bè trong trường khinh bỉ nó vô cùng, thường rõ rẹo vào mặt nó mà rằng: “Chúng tao không chơi với mày! Bố mày làm cai lấy vé chợ”.
Sau những trận đau lòng ấy, chẳng biết trông cậy vào ai, thằng Hợi chỉ còn ôm đầu lủi thủi lại cầm tay tôi, ngước mắt nhìn lên tỏ ý kêu van, dưới ánh sáng mặt trời xiên qua bóng mấy cây bàng, tôi còn thoảng nhớ cái nét mặt ủ rũ của thằng Hợi, hai hàng nước mắt chạy quanh rơm rớm. Anh, nếu anh có đứng vào địa vị tôi bấy giờ, anh mới rõ được cái cảnh thương tâm ấy.
Thành thử nó coi tôi như một người anh, có lẽ hơn một người anh nữa, vì càng khinh bỉ bố nó bao nhiêu, tôi lại càng ái ngại cho thằng Hợi bấy nhiêu. Nó cũng hiểu lòng tôi thế lắm.
Nhưng có lẽ anh đã nóng ruột rồi, câu chuyện “đuổi ăn mày” anh để tâm, đây, tôi kể đến rồi đây.
Buổi tối hôm ấy, cũng vào độ bảy, tám giờ, cũng về cuối tháng giêng ta như hôm nay, chỉ khác là bây giờ thời tiết dễ chịu mà năm ấy thì rét như cắt.
Cái nhà chênh vênh hứng gió, cửa trông thẳng ra bờ sông, chúng tôi ngồi trong, nghe bên ngoài tiếng gió ào ào, cột nhà chuyển lắc rắc mà những rùng mình.
Phải, cái cảnh tượng đêm hôm ấy trí tôi chẳng quên mất một mảy may: cửa đóng kín im im, ngồi chùm đầu trong một cái chăn bông mà hai hàm răng tôi vẫn thấy chọi nhau lập cập. Thằng Hợi ngồi học cùng bàn với tôi nhưng không biết nó nghĩ vơ vẩn điều gì, mắt nó thường không nhìn đến sách. Thầy cai thì ngồi chễm chệ giữa giường, bên đùi kê một hoả lò than đỏ rực, trên để mấy con mực khô đang sèo sèo, mùi mực nướng pha lẫn mùi rượu ngang thơm nức cả nhà, nghĩ đến mà thèm rỏ dãi.
Chợt có người khẽ gõ vào cửa mấy tiếng rồi đánh “hu?t; một cái như có vật gì rơi xuống đó. Vừa toan bỏ chăn, xỏ chân vào đôi guốc bước ra thì thầy cai giơ tay ngăn lại, cầm khăn ung dung chùi mồm, vuốt lại bộ râu cong đâu đấy rồi mới cau đôi lông mày sâu róm lại, lên tiếng dõng dạc:
– Ai hỏi gì…?
Bên ngoài lại thấy mấy tiếng gõ vào cánh cửa.
Thầy cai lộn tiết, quát:
– Hỏi gì, nói lên!!!
Nhưng gió vẫn ào ào, bạt cả lời thầy muốn nói. Chúng tôi lắng tai nghe, bên ngoài đưa vào một cơn ho lụ khụ, rời rạc như của một người mắc bệnh kinh niên, rồi thấy giọng run run đưa qua hơi thở hổn ha hổn hển:
– Lạy ông lạy bà, ông bà cứu con, vừa đói vừa rét thế này con chết mất…
Chẳng cần nói tất anh cũng hiểu là một người ăn mày. Trong lúc đó túi tôi cũng có sẵn vài xu rúc rích, vừa toan mở cửa cho thì con người vô lương tâm kia đã lên giọng quát tháo ầm ầm:
– Bước ngay! Đi nhà khác! Đây không sẵn…!
Anh tính, người ta đang đuổi thế mà mình lại cho tiền chả hoá ra chửi mát người ta hay sao? Nghĩ thế, tôi đành khoanh tay ngồi nín lặng xem cái tấn kịch ấy nó diễn ra trong ba, bốn phút.
– Ối trời ơi! Con lạy ông… ông… không thương, con chết mất!!!
– À… Quân này lại muốn ra gan… Muốn sống thì xéo đi không lại vào bóp sớm.
Bên ngoài, tiếng nói lẫn tiếng khóc:
– Ối trời đất ơi! Con chết mất rồi đây, ông có cứu con không…?

Gớm! Đến cái con người tàn nhẫn ấy thì không thể nào kể được. Tôi không ngờ lão ta nỡ đứng phắt dậy, sẵn chậu thau nước lạnh để gần đấy, liền nhắc ngay lên nhằm khe cửa đổ hắt ra đánh “rào” một cái rồi khoanh tay đứng nhìn.
Mỗi phút một xa, mấy tiếng gậy lộc cộc chống vào hè lát gạch, theo sau một tiếng thở dài… trừ ngọn gió ào ào thổi mạnh, bốn bề lại im phăng phắc.
Nét mặt vẫn thản nhiên như không, thầy cai lại ngồi vào mâm, gật gù mãi đến nửa đêm. Nằm trong chăn, thấy khác hẳn mọi khi, thằng Hợi hôm ấy vừa đặt mình đã ngủ say như chết. Nhưng gần về sáng bỗng bàng hoàng tỉnh giấc, tôi thấy nó quay mặt vào tường mà khóc tỉ tê. Tôi nghĩ mà thương nhưng cũng không khuyên giải, biết rằng có nói cũng chỉ gợi thêm một mối thương tâm.
Hôm sau, nhằm ngày thứ năm, phải buổi chữ nho, thằng Hợi ở nhà, còn tôi đi học.
Đến trưa, cắp cặp về, đã thấy nó đứng cửa, mắt đỏ hoe:
– Anh ơi, hãy ra đây mà xem đã…
Rồi chẳng để tôi kịp hỏi, nó đã xốc lấy tay tôi. Đi thẳng ra bãi, trèo qua dải đê, tôi thấy xa xa một đám đông, vừa trẻ con, người lớn. Đến gần lặng nghe họ bàn tán, tôi hiểu ngay tất có chuyện buồn:
– Thôi, thế cũng xong! Chết là may, chết là hết… Nhiều người muốn chết mà chẳng được cơ…!
Lời nói lạnh lùng của một ông lão trên đầu hai thứ tóc, mắt kèm nhèm, quần áo rách như tổ đỉa. Một thằng bé độ sáu tuổi nhăn răng bảo thằng đứng bên cạnh:
– Mày ạ! Trông đầu ông ấy như một quả bóng sanh (cinq).
Rồi mấy người đàn bà cười ồ.
Chẳng để ý đến mấy người họ lấy khuỷu tay đẩy mình, chúng tôi rẽ đám đông ấy, cố len lỏi vào cho được.
Anh ạ, tôi quyết không bao giờ quên được cái cảnh buồn tê buồn tái ấy nó hiện ra trước mắt tôi, lần ấy là lần đầu.
Trời vẫn rét, gió vẫn thổi ào ào.
Trong miệng cái cống tròn bằng xi măng một cái xác ông lão ăn mày nằm còng queo, hai chân co lên bụng, còn hai tay vẫn như ôm lấy bị gậy. Cái nón lá rơi ra một bên, bộ tóc lơ thơ, mấy chòm râu lốm đốm phất phơ bay theo ngọn gió, cái thân da bọc ngoài xương nằm đó cho ruồi bâu nhặng bám phải chăng là người hành khất đêm qua lê đến cửa nhà tôi mà đã bị một chậu nước lạnh đuổi đi…?
Nghĩ thế rồi chẳng nỡ nhìn lâu cảnh ấy, tôi dắt tay thằng Hợi kéo ra chỗ khác. Nào ngờ, nó cũng nghĩ như tôi, rầu rầu nét mặt mà rằng:
– Chính người ăn mày đêm qua rồi, anh ạ.
Lời nói của một đứa trẻ ngây thơ ấy theo sau một tiếng thở dài mới tha thiết làm sao… Một khối óc còn non mà đã thấy cái chân tướng cuộc đời, trong lòng xúc cảm bao mối thương tâm mà chỉ biết phát lộ ra bằng một tiếng thở dài, một tiếng thở dài mà ngụ bao nỗi đắng cay, ý vị…
Tuy chúng tôi không đứng lại xem lúc xe “măng ca” đến xe cái xác ấy đi ra sao mà buổi chiều hôm ấy, như bị một sức mạnh vô hình xô đẩy, lòng tôi bỗng thấy buồn tê tái, bài chẳng muốn học, cơm chẳng muốn ăn. Muốn giải trí, tôi rủ thằng Hợi đi xem chiếu bóng thì nó cười, cái cười giả dối ấy, tôi còn nhớ mãi. Rồi nó hỏi vay tôi năm hào, nói là để mua đền anh em quả bóng mà nó đã nhỡ chân đá vỡ cách đây mấy hôm. Tôi cho vay ngay, nào ngờ chỉ vì chẳng nghĩ xa xôi mà một đời tôi, rồi đây tôi còn phải lắm phen ân hận.
Đi xem về, tôi vừa gặp thằng nhỏ còn xách thùng đi gánh nước. Bấy giờ thấy cai đang giờ “service” thành cũng vắng nhà. Mở cửa bước vào, tôi thấy thằng Hợi đã nằm kín mít trong chăn. Tưởng cũng như mọi khi, thấy rét thì đi ngủ, tôi đến bên giường khẽ lật chăn ra, ý muốn kể lại câu chuyện vừa xem với nó. Anh ơi! Thật một đời tôi, chưa bao giờ tôi phải một phen lo sợ mà cảm động như lúc bấy giờ.
Đây này, anh…! Trái tim tôi đã thấy đập thình thình, chẳng khác gì lúc ấy, lật cái chăn ra, tôi thấy mặt nó xám ngắt, mắt nó nhắm nghiền mà tay nó thì lạnh giá như đồng, một thứ lạnh của những xác chết khiến ta chỉ hơi chạm vào là đủ rùng mình ghê sợ.
Tôi biết ngay là có chuyện, cố nén cái sợ, ôm lấy ngang lưng nó mà lay gọi một hồi, chẳng thấy gì, tôi đưa mắt nhìn ra bàn thì bộ chén để úp đấy thấy lẻ bên ngoài một cái. Tôi vội cầm đến thì còn thấy cặn…
Chao ôi! Cặn dấm thanh thuốc phiện mùi hãy còn sực nức đưa lên.
Không biết sao, lúc bấy giờ tôi đã toan chạy đâm bổ ra ngoài đường kêu cứu mà rồi tôi lại quay vào, ôm lấy cái xác mà kêu, mà gọi một hồi lâu nữa… Mặt mũi nó trắng trẻo, phương phi, trông mà thương, mà tiếc vô cùng, tôi tưởng chừng như ôm vào lòng xác một đứa em.
Rồi không biết tôi nghĩ lẩn thẩn thế nào mà tôi nâng đầu nó dậy, in cặp môi tôi vào trán nó mà hôn… như hôn một người yêu đang ngủ… thì mắt nó bỗng thấy mở hé ra, tôi còn nhớ mãi đến giờ, hai con mắt ấy lờ đờ mà nhìn tôi như người ngái ngủ. Bỗng nó trợn mắt lên, há miệng như muốn nói, cố vùng tay giơ lên như muốn ôm lấy cổ tôi mà toan gọi: anh! anh!…
Thương thay! Thằng Hợi chửa kịp nói được điều gì thì, chừng như thuốc độc đã thấm đến ruột gan nó, nó nhắm mắt giãy mạnh một cái rồi buông xuôi hai tay mà ngặt cổ xuống giường… bọt mép sùi ra…
Chuyện về sau thế nào, tưởng anh đoán lấy cũng hiểu.
Riêng tôi, tôi coi cái ngày hôm ấy như một ngày mà tôi phải để tang, nhân thấy anh đuổi một ông lão ăn mày nên tôi kể chuyện lại anh nghe…

Vũ Trọng Phụng
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Nhà Văn Vũ Trọng Phụng: Truyện ngắn: Bộ Răng Vàng

Vũ Trọng Phụng
(1912-1939)

Open in new window
– Vũ Trọng Phụng sinh năm 1912 tại Hà Nội. Quê gốc ở Bần Yên Nhân (làng Hảo), huyện Mỹ Hào, Hưng Yên. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó. Bẩy tháng tuổi đã mồ côi cha. Sống với mẹ và bà nội ở Hà Nội. Vũ Trọng Phụng bị bệnh lao mất năm 1939, khi ông 27 tuổi.
Vũ Trọng Phụng có năng khiếu văn học từ nhỏ. Học hết tiểu học ở trường Hàng Vôi, ông phải đi làm cho các sở tư ở Hà Nội. Từ 1930 – 1939, ông viết cho nhiều báo: Hà Thành ngọ báo, Nhật Tân, Hải Phòng tuần báo, Hà Nội báo, Tương lai, Tiểu thuyết thứ năm, Sông Hương,

Đông Dương tạp chí, Thời vụ, Tao Đàn tạp chí… Các tập phóng sự tiêu biểu: Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Dân biểu và Dân biểu (1935), Cơm thầy cơm cô (1936), Lục xì (1938)…; Tiểu thuyết với các tập Giông tố (1936), Số đỏ (1936), Vỡ đê (1936), Làm đĩ (1936), Lấy nhau vì tình (1937), Trúng số độc đắc (1938)…
Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã được xuất bản thành Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (Văn học. H. 1987), Toàn tập Vũ Trọng Phụng (NXB Hội Nhà văn. H. 1998).

Những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng
01. Bộ răng vàng
02. Một cái chết
03. Cái ghen đàn ông
04. Hồ sê líu hồ líu sê sàng
05. Con người điêu trá
06. Bà lão loà
07. Người có quyền
08. Lòng tự ái
09. Đi săn khỉ
10. Máu mê
11. Tự do
12. Lấy vợ xấu
13. Một con chó hay chim chuột
14. Một đồng bạc
15. Đời là một cuộc chiến đấu
16. Từ lý thuyết đến thực hành
17. Gương… tống tiền
18. Ăn mừng

Truyện ngắn: Bộ răng vàng

Ông cụ già ngót tám mươi tuổi đầu ấy đã hứa với chúng cái chết của mình ba tháng nay rồi, mà ba tháng nay, ông cụ cứ nằm lỳ giữa giường để rên đấy, ăn đấy, và thi hành mọi việc cần dùng ở đấy…
Cụ thật là người keo kiệt, đến lúc hấp hối rồi mà vẫn còn đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành, hau háu ra chi li từng đồng xu nhỏ một, chẳng chịu rời chùm thìa khoá, mở tủ, lấy văn tự địa đồ chia của cho con.
Đến bây giờ thì ông cụ quả thật chết rồi, nhẹ nợ!…
Ông cụ chết rồi, thì thằng cả, thằng hai với vợ chúng xúm nhau vào vồ lấy chùm thìa khoá, tính việc chia gia tài.
Chúng hãy để mặc cái thây ma nằm đấy. Cả hai ngày hôm ấy chúng bận bù đầu vào trăm công nghìn việc. Thằng hai nhường cho anh bộ đồ thờ với yến thư bàn độc, thì kỳ kèo ép anh phải bỏ tiền ra lo cho bố, thết đãi hàng xã, hàng tổng thì phải lấy lại hai con lợn nái của mình.
Tối hôm sau cái chết của ông cụ, họ hàng cũng không một ai biết, vì chúng… tính toán chưa xong.
Đến độ nửa đêm mọi việc đã thương lượng được với nhau đâu vào đấy cả. Lên giường nằm nghỉ, thằng cả mơ màng đến những cảnh phóng túng chơi bời cũng như thằng hai, sướng bằng mở cờ trong bụng định những việc mưu danh, cầu tước, mua lấy một chân chức sắc trong làng.
Bốn vợ chồng chúng xì xào to nhỏ với nhau, khúc khích với nhau, duy chỉ một mình ông cụ, một cái thây ma phủ dưới một cái chăn đơn, nằm đờ với ngọn đèn dầu to không bằng hạt đỗ. Vì không có chúc thư để lại, cái chết kia là cái chết bất thình lình, chúng dã dấu kín ngày giờ với họ hàng, làng nước thì chúng kêu gào khóc lóc làm chi?
Vợ chồng thằng cả muốn như ngủ rồi, thì vợ chồng thằng hai rón rén đẩy cửa lôi nhau ra ngoài chuyện kín.
Thằng hai, óc lý tài sáng suốt hơn thằng cả, nhớ rõ ngay rằng trong lúc sinh thời, ông bố muốn thay vào hàm răng bằng cái còn cái gãy, đã lên tỉnh, vào nhà giồng răng vàng.
Chúng cứ xì xào cãi lẫn với nhau: con vợ nhất định giãy giụa không nghe, kêu rằng trong nhà có kẻ qua đời, người sống muốn cho kẻ chết được thiêng liêng phù hộ cho mình, thường còn lắm khi bỏ vàng vào miệng. Nên khi thấy chồng bàn lấy bộ răng trong mồm bố để bán, nó chẳng bằng lòng…
Thằng chồng phát gắt mà rằng:
– Cái đời đàn bà chúng mày sao ngu thế? Chết rồi, thì việc cúng giỗ chẳng qua là việc lừa dối thiên hạ, bộ răng vàng ấy đem bán đi không được chục bạc hay sao? Mày không nghe ông mặc kệ mày, miễn sao mày đừng để cho vợ chồng anh cả biết. Ông làm gì thì mặc xác ông!
Rồi nó nguây nguẩy quay vào, để cho vợ một mình đứng đấy.
Trong nhà có người chết, ngoài sân lại thêm đom đóm bay liệng lập lòe, cây cau, cây chuối cọ lá sột sạt vào nhau, con vện thỉnh thoảng cắn bóng một cách tức bực buồn rầu, nghe sợ đến rủn người đi được.
Chị vợ bỗng giật mình hoảng sợ, hấp tấp chạy vào những toan ngăn chồng không cho làm thế, nhưng khi đến cửa buồng, nhìn vào thây ma trơ trơ nằm đấy thì chị ta lại sợ, không dám bước vào.
Nó biết vợ nó phải lánh mặt đi rồi thì nó cứ việc tự do hành động. Nó nhìn sau nhìn trước, lắng tai nghe kỹ, thấy vợ chồng anh mình đã ngáy mới yên trí, rón rén đến bên giường bố chết, lật cái chăn ra.
Để một tay giữ trên đôi mắt người đã qua đời, còn một tay nó bóp lấy hàm, cố vành cho được. Thấy hơi răn rắn, nó liền dùng hết sức, cố vành mồm kẻ chết móc ra được bộ răng vàng. Như người sốt rét phải chậu nước lạnh dội vào mình, nó bỗng run lên lật bật. Bộ răng vàng rơi lăn xuống đất nó cũng không kịp nhặt, vì khi nhìn lại đôi mắt của kẻ qua đời đã bị bàn tay phũ phàng kia làm cho lật hẳn mi lên. Mà cái mồm, một cái mồm không răng trông sâu hoăm hoẳm mà tối om om, sau khi đã bị vành thì thôi, nhất định không thèm ngậm lại. Người chết hình như trợn mắt, há mồm, nguyền rủa thằng con bất hiếu, trông đáng sợ vô cùng.
Nó đứng ngây ra đấy kinh khủng mà nhìn, không chớp mắt một hồi, rồi sau khi rú lên một tiếng, bưng mặt đẩy cửa chạy đi.
Nghe thấy tiếng kêu ghê gớm lạ lùng hai vợ chồng anh đều ngồi nhổm dậy. Chúng không hiểu nguyên do sao cả, chỉ nhìn nhau một cách kinh ngạc rồi rón rén xuống đất, bước đến cửa phòng người chết, đứng đấy nhìn vào. Cái thây ma trợn mắt há mồm như đang chửi rủa.
Hai vợ chồng sợ quá đứng sát nách nhau mà run lập cập, trống ngực đánh thình lình. Giữa cái lúc bối rối tâm thần, mơ màng đến những chuyện “quỷ nhập tràng” của bộ Liêu trai, không biết nên đứng ỳ ra đấy hay cuống cẳng bỏ chạy đi đâu, thì thằng anh nhìn thấy cái bộ răng vàng nằm dưới gậm giường nhờ ánh sáng đèn chiếu ra lóng lánh.
Cái việc thằng em vào đây, rú lên rồi ôm đầu bỏ chạy, nó hiểu rõ ra ngay.
Nhìn ra sau lưng, thấy vợ chồng thằng em đã đứng tái mặt đấy rồi, thì nó lên giọng đàn anh, mắng trùm: “Chúng mày thực là bất hiếu!”.
Người đàn bà kia cố cãi cho ra lẽ, kêu rằng đã hết lời ngăn cản mà chồng chẳng chịu nghe nào. Rồi chị ta xin lỗi cho chồng, những mong được lượng ông giữ kín những chuyện nhơ nhuốc trong nhà, cứ việc lắp lại hàm răng vào mồm cho bố.
Nhưng thằng anh lại không làm thế, sau khi không có cách nào vuốt mắt, đậy mồm cho người đã mất thì nó chỉ đành trùm chăn lên trên một cách gọn gàng. Rồi nó quay lại mắng đứa em dâu:
– Chú thím đã định lừa tôi như thế, thì bộ răng này, sau khi tôi bán được, mong rằng chú thím
đừng nhớ đến chuyện chia…
Sau cùng, thì một cách tự nhiên, nhanh nhẹn nhất đời, nó cúi xuống nhặt bộ răng vàng, bỏ túi.

Vũ Trọng Phụng
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Tất Cả Đàn Ông Đều Đểu

Open in new window
1. Trưởng phòng điều vận đầu máy xe lửa, lão già Miskin, gọi cô nhân viên đánh máy chữ Nina Riadnova vào phòng làm việc của mình và chìa ra hai tập tài liệu, bảo cô đánh máy lại sạch sẽ.Khi Miskin trao hai tập giấy cho Nina, ông ngó cô chằm chằm; nhờ ánh dương quang, lần đầu tiên ông mới được trông thấy cô thật rõ ràng.
Trước mặt ông là một cô gái tầm thước, phổng phao, ngực cao vổng. Gương mặt xinh đẹp trắng hồng của cô toát ra vẻ thản nhiên, chỉ trong đôi mắt mới thỉnh thoảng ánh lên những đốm lửa màu xanh sẫm.
Miskin bước đến gần sát bên cô và nói:

– Thế này, nhờ cô… đánh máy mấy tờ giấy này. Tôi không làm phiền cô chứ?
– Tại sao ạ? – Nina hơi ngạc nhiên.
– Cháu được trả lương là để làm việc ấy mà.
– Thế, thế… lương. Đúng vậy, lương.
Cô đánh máy có đau ngực không? Thật đáng buồn để bộ ngực đẹp như thế kia lại bỗng nhiên bị đau.
– Ngực cháu không bị đau gì cả.
– Tôi rất mừng. Cô có lạnh không?
– Tại sao cháu lại có thể lạnh được ạ?
– Áo ngoài của cô mỏng và trong suốt thế này… Kìa, đấy, nhìn rõ cả cánh tay. Đôi tay cô đẹp quá. Cơ trên tay cô có săn chắc không?
– Để tay tôi được yên!
– Cưng… một phút nào… khoan… Sao lại giằng ra thế? Để anh xem, tay áo mỏng quá..
.- Sao ông dám! Bỏ tay ra… Tôi đau… Đồ đểu!Nina Riadnova vùng ra khỏi đôi tay gân guốc của lão già Miskin, chạy vào gian phòng lớn, nơi những nhân viên khác của phòng điều vận đang làm việc.Tóc cô bị xô lệch sang bên, tay trái cô, chỗ phía trên khuỷu, đau âm ỉ, khó chịu.
– Đồ mất dạy, – Nina rủa thầm.
– Ta sẽ không bỏ qua chuyện này đâu!Cô đậy vỏ lên chiếc máy chữ, mặc áo khoác ngoài, rời khỏi nơi làm việc; khi đã ra ngoài phố, cô dừng lại trên vỉa hè, ngẫm nghĩ: “Mình phải đến gặp ai nhỉ? Đến luật sư vậy”

2. Luật sư Iazưtrnicov ngay lập tức tiếp Nina và nghe cô kể rất chăm chú.
– Đểu đến thế là cùng! Mà lại già nữa kia đấy!
– Bây giờ cô muốn gì? – Luật sư Iazưtrnicov dịu dàng hỏi cô
– Có thể tống lão đi Xibiri được không? – Nina hỏi.
– Xibiri thì không được… Nhưng khởi kiện bắt hắn ta phải chịu trách nhiệm nói chung thì được.
– Thì anh khởi kiện đi.
– Cô có nhân chứng không?
– Tôi là nhân chứng đây! – Nina đáp ngay
– Không được, cô là người bị hại. Nếu như không có nhân chứng thì cô có dấu vết xâm hại nào không?
– Tất nhiên là có. Lão ta xâm hại tôi rất thô bỉ. Bóp chặt lấy tay tôi. Có lẽ bây giờ vẫn còn vết tím bầm. Luật sư Iazưtrnicov trầm ngâm, nhìn bộ ngực lộng lẫy của Nina, nhìn cặp môi đẹp và đôi má ửng hồng – một giọt nước mắt nhỏ trào ra và chảy dài bên má của cô gái.
– Cho tôi xem tay nào, – Luật sư nói.
– Ở chỗ này, trong áo ấy.
– Nhưng phải cởi áo ra.
– Nhưng anh không phải bác sĩ, mà là luật sư, – Nina ngạc nhiên.
– Điều đó không có ý nghĩa gì hết. Chức năng bác sĩ và chức năng luật sư gần nhau đến mức nhiều khi chúng hòa lẫn vào với nhau. Cô có biết bằng chứng ngoại phạm là gì không?
– Không, tôi không biết.- Ấy thế đấy.
Để xác định tội phạm, tôi trước hết cần phải xác định bằng chứng ngoại phạm của cô. Cởi áo ra.Nina đỏ mặt, thở dài, vụng về tháo mấy cái móc khuy áo và kéo một bên vai áo xuống.Luật sư giúp cô cởi áo. Khi cánh tay mềm mại trắng hồng của Nina lộ ra với một chỗ lõm nhỏ nơi khuỷu, luật sư đưa mấy ngón tay sờ lên chỗ có vết đỏ gần bờ vai trắng hồng và lịch thiệp nói:
– Xin lỗi, tôi cần phải xác nhận bằng chứng. Giơ tay lên. Thế, cái gì đây? Ngực à?
– Đừng động vào tôi! – Nina hét lên.
– Làm sao anh dám?! Run rẩy toàn thân, cô chụp vội lấy tay áo khoác và vội vã mặc vào
– Gì mà cô giận dữ thế? Tôi còn cần phải xác định để loại bỏ khả năng kháng kiện..
.- Anh là đồ mất dạy! – Nina cắt ngang, dập mạnh cửa, bước ra khỏi phòng.
Bước đi ngoài phố, cô thầm nhủ:- Mình đến gặp luật sư để làm gì nhỉ? Đáng ra mình cần đến gặp bác sĩ xin giấy chứng nhận về việc xâm hại thô bỉ này mới phải.

3. Bác sĩ Dubiago là một người đàn ông đứng tuổi đạo mạo. Ông tỏ vẻ hết sức thông cảm với Nina, lắng nghe cô kể, chửi rủa lão trưởng phòng điều vận và gã luật sư, rồi nói
– Cởi đồ ra. Nina cởi áo ngoài, nhưng bác sĩ Dubiago xoa tay bằng một động tác rất chuyên nghiệp và nói:
– Cô, thế này, cởi hết ra…
– Hết là thế nào? – Nina bùng lên.
– Lão ta túm lấy tay tôi. Tôi chỉ cho ông xem tay thôi.
Bác sĩ ngắm nghía thân hình Nina, bờ vai trắng như sữa của cô, và dang hai tay ra.
– Dù sao thì cô cũng phải cởi hết… Tôi cần phải có một cái nhìn tổng thể về cô. Xin lỗi, để tôi giúp cô. Ông cúi xuống bên Nina, khám phá cô bằng đôi mắt cận thị, nhưng chỉ một phút sau cái vung tay của Nina đã đánh văng khỏi mũi ông cặp kính cận, khiến bác sĩ Dubiago nhất thời mất đi không chỉ khả năng có một cái nhìn tổng thể, mà cả cái nhìn bình thường cũng không thể có.
– Để tôi yên.. Lạy Chúa! Tất cả đàn ông đều đểu.

4. Rời khỏi nhà bác sĩ Dubiago, Nina toàn thân run rẩy vì giận dữ và phẫn nộ. “Đấy – những người bạn của loài người đấy! Những con người trí thức đấy!… Không, cần phải vạch mặt, phanh phui, tố giác tất cả cái lũ đểu giả mang mặt nạ đạo đức này”. Nina đi loanh quanh trên các hè phố một hồi, bình tĩnh lại ít nhiều, rồi quyết định

đến gặp nhà báo Gromov, – một nhân vật tên tuổi, có tiếng là đàng hoàng, trung thực, không thể mua chuộc được, một tuần từ hai đến ba lần thẳng tay vạch mặt sự dối trá.

Nhà báo Gromov thoạt đầu tiếp Nina không được niềm nở cho lắm; nhưng sau khi nghe xong câu chuyện của cô, anh đã tỏ vẻ cảm thông với những phiêu lưu bất hạnh của cô.
– Cha cha! – Anh cười cay đắng
– Thấy chưa, những con người tốt đẹp có trách nhiệm chữa trị vết thương và giảm nhẹ đau đớn cho loài người đau khổ! Thấy chưa những kẻ bảo vệ nhân dân bị áp bức và lăng nhục, những đại diện cho chân lý công bằng! Họ đã bị rơi mặt nạ văn hóa ngay trong lần đụng chạm vớ vẩn nhất với cuộc sống. Một lũ man rợ, đến tận giờ vẫn sống bằng xác thịt… Cha – cha! Ta biết họ mà.
– Có phải cởi áo ra không ạ? – Nina rụt rè hỏi.
– Cởi áo? Cởi để làm gì? Mà… cũng có thể cởi ra. Thử xem những cái dấu vết… hừm… của văn hóa. Nhìn thấy cánh tay trần và khoảng vai của Nina, Gromov nheo mắt lắc đầu:
– Nhưng mà… tay của cô em… chẳng lẽ có thể đem trưng những hiện vật như thế này ra để quyến rũ nhân loại ư? Mặc vào đi. Hay là… không… gượm đã… Có mùi thơm gì thế này? Thế nào, nếu như tôi hôn vào cánh tay này, vào đây, ở khuỷu… Chà, hừm… chắc cô em cũng đồng ý rằng cô em chẳng thiệt hại gì, mà tôi lại có được một cảm giác thú vị mới mẻ để…
Gromov không có dịp được hưởng cái cảm giác thú vị đó. Nina kiên quyết từ chối nụ hôn; cô khoác lại áo vào và bỏ đi. Về đến nhà, cô cười trong nước mắt. “Lạy Chúa tôi, đàn ông rặt một lũ đểu cáng và ngu ngốc “

5. Buổi tối, Nina ngồi khóc trong phòng. Rồi bởi vì rất muốn chia sẻ nỗi đau khổ của mình với một ai đó, cô thay áo và đi sang phòng chàng sinh viên tự nhiên học Ikhnevmonov sống bên cạnh trong cùng khu chung cư.

Ikhnevmonov suốt ngày đêm chỉ ôm lấy đống sách, bao giờ người ta cũng trông thấy anh cúi sát khuôn mặt đẹp, xanh xao trên những trang sách in, vì vậy Nina gọi đùa anh là ngài giáo sư.

Khi Nina bước vào, Ikhnevmonov ngước đầu lên khỏi trang sách, hất tóc ra sau và nói:
– Chào cô Nina! Nếu cô nàng muốn uống chè, thì chè và giăm bông ở kia. Còn Ikhnevmonov phải đọc nốt chương này đã.
– Hôm nay em bị làm nhục, anh Ikhnevmonov ạ, – vừa ngồi xuống Nina vừa nói.
– Sao?.. Ai?
– Một luật sư, một bác sĩ, một lão già. Toàn bọn đểu!
– Người ta làm nhục bạn như thế nào?
– Một người bóp tay đến bầm tím, còn bọn khác thì dòm ngó và cứ bám riết lấy…- Thế…
– Ikhnemonov lật trang sách, nói.
– Thiệt quá đáng.
– Tay vẫn đau, khó chịu, – Nina than vãn.- Một lũ đê tiện! Bạn uống trà đi!
– Có lẽ, – Nina buồn rầu mỉm cười, – Cả anh cũng muốn xem tay em như mấy người kia?
– Xem để làm gì? – Chàng sinh viên mỉm cười.
– Có vết bầm – bạn nói tôi tin rồi mà. Nina uống trà. Ikhnemonov giở từng trang sách.
– Đến tận giờ cánh tay vẫn rát, – Nina lại than thở. Có phải đắp thuốc không anh nhỉ?
– Tôi không biết.- Hay là để anh xem tay? Em biết anh không như những người khác, em tin anh.
Ikhnevmonov nhún vai.- Làm phiền bạn làm gì?… Nếu tôi là thầy thuốc thì tôi đã giúp bạn rồi. Nhưng tôi học tự nhiên…
Nina cắn môi, đứng dậy và khẩn khoản:- Nhưng dù sao anh cũng nhìn qua một tí.
– Thì nào, đưa tay bạn đây… Đừng lo… bạn chỉ tuột áo khỏi vai… thế…
Đây à?.. Hừm. Đúng là vết bầm. Cái lũ đàn ông này. Nhưng nó sẽ chóng khỏi thôi. Ikhnemonov lắc đầu đầy thông cảm và lại ngồi xuống chúi đầu vào quyển sách.
Nina ngồi im lặng, làn da trên vai màu sữa sáng đục lên dưới ánh đèn vàng vọt.
– Bạn khoác áo vào đi, – Ikhnemonov nói.
– Ở đây lạnh lắm.
Tim Nina thắt lại.- Lão lại còn véo chân em nữa, – Nina bất ngờ nói sau một hồi im lặng.
– Cái đồ đốn mạt! – Chàng sinh viên lắc đầu.
– Chỉ anh xem nhé? Nina cắn môi và muốn kéo váy lên, nhưng chàng sinh viên đứng dậy nói:
– Để làm gì? Bạn lại phải cởi cả tất, mà ở đây gió lùa lạnh lắm. Bạn sẽ cảm mất thôi, chẳng hay ho gì. Tôi có biết mô tê gì về y học cả đâu, như trong dân gian người ta vẫn nói ấy. Bạn uống trà đi. Chàng lại vùi đầu vào sách. Nina ngồi thêm một lúc, thở dài và lắc đầu:
– Thôi em về đây. Không thì nói chuyện làm anh mất tập trung công việc.
– Không sao đâu, – Ikhnevmonov nói, bắt tay Nina thật chặt khi tiễn cô ra cửa. Bước vào phòng mình, Nina thả người xuống giường. Và, khép mi mắt lại, một lần nữa cô thì thầm: “Tất cả đàn ông đều đểu!”

Arkadi Averchenko
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,