Monthly Archives: Tháng Năm 2012
Cảm nghĩ về bài thơ: “Đồng dao cho người lớn“ của Nguyễn Trọng Tạo
Gần đây, tôi mới có dịp nghe những bài ca và đọc những bài thơ do Nhạc sĩ – Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo sáng tác, bởi vì tôi xa quê hương đã lâu, trước khi mà Nhà thơ, Nhạc sĩ, Họa sĩ, Nhà báo Nguyễn Trọng Tạo trở thành người mà nhiều người biết đến.
Nguyễn Trọng Tạo
Nguyễn Trọng Tạo danh nổi nước Nam
Ghi chú: tên một trong những tác phẩm của Nhà thơ – Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo:
có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
“Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
“Có câu trả lời biến thành câu hỏi
“Có cha có mẹ có trẻ mồ côi
Và câu thơ:
“Có thương có nhớ có khóc có cười
Tâm sự của hoa sen
Tâm sự của hoa sen
Tên em là hoa sen. Em sinh ra từ ao đầm. Việt Nam quê em có nhiều ao đầm lắm. Nông thôn thì vô kể, thành thị cũng rất nhiều. Ở đâu có ao đầm là có hoa sen. Trong đầm không chỉ có hoa sen mà còn nhiều loài hoa khác như: hoa súng, hoa bèo, hoa rau muống… màu sắc cũng rất đẹp, trông rất dễ thương, nhưng chỉ có sen là được ca ngợi và đi vào thơ ca, đi vào kho tàng văn học dân gian, được truyền mịêng trong dân chúng, từ đời này qua đời khác. Này nhé, đây là câu ca dao đã đi vào trong lời ru của mẹ, cho tất cả các em bé trên khắp đất nước Việt Nam:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Câu ca ấy đã ru các em bé ngủ say sưa, không khóc vòi mẹ nữa. Câu ca đã đi vào trong tiềm thức của những người dân bình thường nhất, nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ khôn lớn, nên người, đi vào tâm hồn thơ của nhiều thi sĩ, góp phần giúp thi sĩ viết nên những áng thơ tuyệt tác để lại cho đời.
Đất nước Việt Nam có nhiều loài hoa lắm cơ: này nhé hoa hồng, này nhé hoa lan, hoa huệ, hoa cúc, hoa đồng tiền, hoa lay-dơn, hoa phượng, hoa nhài… mỗi loài hoa đều có vẻ đẹp cao qúy, thơm ngào ngạt, đủ các màu sắc rực rỡ, và được trồng ở những nơi cao ráo, sạch sẽ… chỉ riêng hoa sen là ở trong đầm thôi, vậy mà sen được ca ngợi, được yêu qúy:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen”
Đó là một hình ảnh so sánh, gợi hình ảnh, mà nhà thơ “nhân dân” đã ưu ái dành cho hoa sen chúng em. Chúng em tự hào lắm, vì chẳng có gì đẹp hơn sen cả, trong cái đầm ấy.
“Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”
Qủa thật, sen rực rỡ, tinh khiết, vượt lên trên tất cả,vượt lên khỏi đất, khỏi bùn tỏa hương thơm ngào ngạt, át hết cả mùi hôi tanh của bùn đất:
“Nhị càng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn!”
“Nhị vàng bông trắng lá xanh”, đã được nhà thơ “nhân dân” nhắc lại lần nữa, đảo từ, với ý nhấn mạnh vẻ đẹp của hoa sen, mà ai cũng yêu qúy. Tại sao nhà thơ “nhân dân” lại viết là:
“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Mà không viết là:
“Từ bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn?”
Tại sao là “gần” mà không là “từ”? Vì cái từ “gần” hay “từ”, mà có nhà thơ (em xin miễn nói tên, vì nhà thơ đã qúa cố), đã khẳng định rằng bài thơ này không phải từ nhân dân, nghĩa là không phải do nhân dân yêu mến loài hoa chúng em mà viết nên bài ca dao về chúng em, mà có ai đó, đã sáng tác bài thơ này vì mục đích chính trị… Thật oan cho hoa sen chúng em qúa, oan cho bài thơ qúa, phải không? Vì hoa sen chúng em đâu có “từ bùn” mà ra? Sen sinh trong đầm, sen chắt lọc chất hữu cơ từ lòng đất, từ nước, mà sen mọc thành cây. Sen lớn lên và ra hoa đẹp rực rỡ, thơm hương ngào ngạt, bởi vì sen chắt lọc hương của gió, hương của đất trời, của nắng, của mưa… mà tạo thành sen. Sen đâu có “từ bùn”. Bùn chỉ bám quanh sen, bên sen thôi, trong bùn cũng có chất hữu cơ, mà khi bùn bám vào thân sen, sen chắt lọc chất hữu cơ ấy, nuôi lớn mình và tạo nên hương sắc trời cho mà không bất cứ loài hoa nào sánh nổi! Nhà thơ “nhân dân” đã sử dụng từ rất chính xác, khi dùng từ “gần”. Và sen không chỉ để ngắm, để cắm trong bình, mà sen còn qúy giá và công dụng lắm! Lá sen dùng để gói xôi, gói cốm Vòng, xôi, cốm cũng thơm lây nhờ sen đó. Lại nữa, hạt sen, ngó sen… đều ăn được, và là thức ăn thông dụng của người Việt đấy và cũng nhờ thế, chúng em còn được chu du khắp thiên hạ và được thiên hạ yêu qúy nhờ những sản phẩm từ sen như mứt sen, chè sen, hoa sen… đấy! Hạt sen để nấu chè, hầm thịt, làm mứt… ngó sen cũng vậy. Tim sen cũng để uống chè, dễ ngủ… Hương sen để ướp chè… nói tóm lại, chẳng có thứ gì ở sen là bỏ đi cả! Vì thế mà người Việt chọn hoa sen chúng em là “quốc hoa” đấy! Hoa sen chúng em được chọn là biểu tượng của sự tinh khiết đó! Khi chọn hoa sen chúng em làm “quốc hoa”, cũng để nhắc nhở cháu con người Việt, dù trong bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào, cũng phải luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức, giữ gìn tâm trong sáng, cũng phải như sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” vậy!
Em ngỏ lời tâm sự, để mong sao bài ca dao của “nhân dân” sẽ tồn tại mãi với thời gian, sẽ mãi mãi đi vào giấc ngủ của trẻ thơ qua lời ru ngọt ngào của mẹ, để mai sau khôn lớn nên người hữu ích cho quê hương, đất nước.
29.5.2012/Trần Kim Lan
Nghĩ về bài hát: “ Đôi mắt đò ngang“ của Nguyễn Trọng Tạo
Nghĩ về bài hát: “ Đôi mắt đò ngang“ của Nguyễn Trọng Tạo
Xem tại đây:
– Bài hát: Đôi mắt đò ngang
Tôi đã nghe nhiều bài hát do Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo sáng tác, bài hát nào do Nhạc sĩ sáng tác cũng lắng đọng trong tôi những dư âm ngọt ngào, da diết khó quên, làm vơi đi trong tôi những mệt nhọc, buồn rầu đời thường.
Bài hát nào của Nhạc sĩ tôi cũng thích, đặc biệt là bài “Làng Quan họ quê tôi“, “Khúc hát sông quê“ và “ Đôi mắt đò ngang“. Nhưng tôi chọn bài “Đôi mắt đò ngang“ để bày tỏ tình cảm của mình, vì sao? Đơn giản vì bài hát này dễ hát, dễ thuộc, và tôi đang cố học hát bài này để thấm hơn nhịp điệu và tình ý mà Nhạc sĩ muốn gửi gắm qua bài ca này và cũng là bài mà lời và nhạc là do chính Nhạc sĩ “tự tung, tự tác“, theo cảm hứng của chính Nhạc sĩ.
Mở đầu, Nhạc sĩ dẫn ta đến một khung cảnh miền quê sông nước:
“Bồng bềnh, bồng bềnh“
Ta như đang nhìn thấy con đò ngang đang bập bềnh trên sông nước, đợi khách qua sông. Ta cũng hình dung dòng sông trong xanh buổi sáng sớm, người lái đò đang ngóng đợi khách. Nhịp hát nhẹ nhàng, giọng kề chuyện, dẫn đưa ta đến sự kiện… và cũng với nhịp điệu khoan thai, giọng kể chuyện, được lặp lại như trên:
“Gọi đò, gọi đò
Đò sang, đò sang“
Nhạc sĩ đã dẫn dắt người nghe một cách từ từ, chậm rãi, để rồi, người nghe bất chợt hồi hộp vì tình tiết xảy ra, vì âm điệu nhạc thay đổi nhanh hơn, mạnh mẽ hơn:
“Đò sang sông nước
Gặp đôi mắt biếc“
Ở đoạn này Nhạc sĩ bắt đầu dẫn đưa ta đến tình tiết hấp dẫn của sự việc “ Gặp đôi mắt biếc“ ở đây được luyến giọng, âm thanh vút cao khiến tim ta cũng bắt đầu rung cảm. Và câu tiếp theo:
“Mà say mà say tình
Mà yêu mà yêu người”
Đã được Nhạc sĩ phổ nhạc với âm điệu chậm, luyến láy từ “mà, say, yêu” và đó chính là điểm đỉnh của tình cảm. Chữ “say… tình” và “yêu… người” ở đây được luyến và kéo dài ra, thể hiện cung bậc tình cảm của người kể chuyện, mà ta hiểu đó là một chàng trai, tới bến đò và bắt gặp ánh mắt của một người con gái. Đó lá ánh mắt “biếc”, là ánh mắt ngây thơ, trong sáng của một cô gái đến tuổi dậy thì, đến tuổi yêu. Ánh mắt đã hút hồn chàng trai, đến mức độ mà chàng trai đã “say” cô gái đó, ngay từ ánh nhìn đầu tiên, từ say, đến yêu, yêu ngay từ ánh nhìn đầu tiên. Đôi mắt chính là cửa sổ của tâm hồn, là cầu nối tình yêu đôi lứa và tình cảm của nhân loài. Tất nhiên, phải có sự giao nhau của hai cặp mắt, thì mới khiến chàng trai mê mẩn đến thế. Nếu cô gái không nhìn chàng trai với ánh mắt chứa chan tình cảm, thì chắc chắn chàng trai cũng không bị “tiếng sét ái tình” đánh trúng tim!
Thế rồi, chàng trai chưa kịp định thần, sau cú “sét đánh”, ánh mắt đó đã mất hút theo dòng người, chàng trai ngơ ngẩn, lang thang đi tìm đôi mắt đó:
“Vào sông Lam
Hỏi thăm đôi mắt ấy
Hỏi người, người về đâu
Về đâu hỡi người”
Âm điệu nhạc lúc này da diết, là tâm trạng lo lắng, hồi hộp của chàng trai, không biết làm sao đây để gặp lại cô gái, gặp lại đôi mắt biếc ấy? Nhạc sĩ đã thể hiện rất thành công tình cảm yêu thương nồng cháy của chàng trai. Và chàng trai tiếp tục trăn trở, lo lắng, làm sao đây để tìm được cô gái:
“Về đâu trên bến dưới thuyền
Sa Nam chưa vãn chợ
Biết tìm là tìm người đâu?”
Với nhịp điệu dồn dập, tha thiết Nhạc sĩ đã cho ta hiểu tâm trạng rối bời của chàng trai, vì sợ sẽ không gặp lại được đôi mắt ấy trong dòng người ngược xuôi trên sông nước. Và rồi, cũng thật là bất ngờ, chàng trai đã nhìn thấy đôi mắt ấy trên con đò ngang đầy ắp người:
“Chợ Đông, chợ Đông ai chở đò đầy”
Và một lần nữa, Nhạc sĩ lại tạo ra một tình huống thật bất ngờ, lý thú:
“Chìm trong đôi mắt ấy
Nhịp điệu ở đây dồn dập, gây hứng thú vô cùng và ngôn ngữ thể hiện tình cảm rất tuyệt! Nghe tới đây, tôi liên tưởng đến hình ảnh Thúy Kiều:
Đò đầy, đò đầy, anh cứ sang!”
“Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” (Truyện Kiều – Nguyễn Du).
Thúy Kiều vì yêu Kim Trọng, cũng đã vượt qua lễ giáo phong kiến mà tự tìm đến với người mình yêu. Huống chi nay là thế kỷ hai mươi, chàng trai đã để lỡ cơ hội làm quen ngay từ ánh nhìn đầu tiên, phải nhọc công đi tìm kiếm ánh mắt ấy, nay gặp lại, dù đò có đầy, cũng cứ trèo lên. Ta hình dung đò đầy chật những người và chàng trai cố trèo lên đò và tới ngay bên cô gái để làm quen, hai cặp mắt nhìn nhau đắm đuối và phản ứng của người lái đò và những người đi đò ra sao? Chắc là đò nặng qúa tải, họ định yêu cầu chàng trai xuống, nhưng khi bắt gặp ánh mắt của hai người, chắc chắn một ai đó, sẽ tự động rời khỏi đò để nhường chỗ cho chàng trai kia, nếu tôi ở hoàn cảnh đó, tôi cũng sẽ nhường chỗ cho chàng trai, đi chuyến sau! Nhạc sĩ đã dẫn dắt chúng ta tới một tình huống bất khả kháng của chàng trai: Nhất định phải làm quen với cô gái! Và thế là tình yêu bắt đầu!
“Bồng bềnh, bồng bềnh
Đò ngang, đò ngang
Bạn tình, bạn tình
Cùng sang, cùng sang“
Nhạc sĩ tiếp tục kể chuyện với giọng điệu như mở đầu câu chuyện, nhưng lúc này, trên con đò ấy, hai cặp mắt đã làm quen với nhau và họ hiểu, tình yêu đã bắt đầu, như Nhạc sĩ đã diễn tả. Tình yêu đến và hai nhịp tim cùng đập, cùng say, tình yêu trào dâng như sóng nước, như mùa xuân đất nước:
“Cùng sang Bến Ước
Mùa xuân đất nước
Niềm vui, niềm say rót đầy
Niềm yêu, niềm tin tháng ngày
Bên sông Lam trời xanh như đắm đuối
Mắt người… người tình ơi!”
Không chỉ chàng trai đắm đuối, chìm trong đôi mắt thiếu nữ mà cả “trời xanh” cũng đắm đuối trước hai cặp mắt đang yêu nhau!
Một bài hát, một câu chuyện tình bắt nguồn từ đôi mắt biếc, từ đôi cặp mắt giao nhau trên dòng sông Lam, nơi Nhạc sĩ đã sinh trưởng, đã chìm đắm khỏa mình trong dòng nước trong xanh quê hương, đã chìm đắm trong ánh mắt chứa chan yêu thương, trinh trắng thuở ấy, đã là hành trang cho những bài ca bất hủ mà Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo đã dâng cho đời. “Đôi mắt đò ngang” cũng chính là ánh mắt mà ta gặp bất cứ ở đâu, ở bất cứ dòng sông nào trên quê hương, trên những nẻo đường… của bất cứ ai, của bất cứ cuộc tình nào… Và bài ca với âm điệu tha thiết yêu thương, với tình yêu tuyệt đẹp, bất diệt, sẽ tồn tại mãi với thời gian! Cảm ơn “Đôi mắt đò ngang” – cảm ơn Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo!
26.5.2012/Trần Kim Lan
Chụp ảnh tạo dáng độc đáo với Mặt trời
Chụp ảnh tạo dáng độc đáo với Mặt trời
Dưới đây là một số hình ảnh độc đáo về Mặt trời trong bộ ảnh của Malek Hammoud:
Một phụ nữ dường như ôm trọn Mặt trời trong vòng tay của mình |
Để đời soi chung
KTTƯ: 54-Để đời soi chung
(Giọng kể chuyện)
Xem tại đây:
– Chúa Giê-su về Trời
– Chúa Thánh Thần Hiển linh
– Chúa Thánh Thần
– Thiên Chúa ba ngôi
Một ngày nọ, tại thành Jerusalem
Họ dẫn đến một đàn bà tội lỗi
Và hỏi Chúa: “Có nên ném đá chăng?“
Vì luật Mô-sê đã truyền từ trước…
Chúa Jesus chỉ im lặng, cúi đầu
Người lấy tay vẽ, viết gì trên đất
Họ gặng hỏi, để theo luật, kiện Người
Chúa nói: “Ai vô tội, ném trước nhất!“
Và đám đông đã lặng lẽ lùi xa
Trước hết người già, rồi đến người trẻ
Chỉ còn Chúa Jesus và người đàn bà
Đám đông ồn ào, giờ trong quạnh quẽ…
Bấy giờ, Chúa lại ngước mắt nhìn lên
Và hỏi: “Có ai định tội ngươi thế?“
Người đàn bà đã trả lời: “Thưa, không!“
“Ta… cũng không! Đừng phạm tội nữa nhé!“
Xét mình, trước khi xét người
Vì ta có tội, ta thời xét ai?
Bạo lực chẳng sửa được sai
Sửa trị như Chúa, để đời soi chung!
(Dựa theo Johannes-Gioan-KTTƯ)
24-10-2001/Trần Kim Lan
Tiếng Việt trong văn học và giao tiếp
Tiếng Việt trong văn học và giao tiếp
Quán cóc của bà Sáu hôm nay trò chuyện thật sôi nổi. Lúc đó là sau giờ tan tầm. Hà Nội dòng người vẫn đông nghìn nghịt, xe người chen chúc nhau. Mấy vị công chức, nhà văn, nhà báo, xe ôm, xích lô… dạt vào quán nước xả hơi sau một ngày làm việc mệt nhọc, và cũng để tránh dòng người đông như kiến đang nhúc nhích từng bước, từng bước trên đường phố.
– Này! Theo anh thì tiếng Việt trong văn học và giao tiếp phải như thế nào? Người có dáng vẻ gầy gầy, đeo cặp kính trắng, đột ngột hỏi người ngồi bên cạnh.
– Tiếng Việt trong văn học và giao tiếp phải như thế nào ư? Cậu hỏi rõ vớ vẩn! Nói như thế nào thì viết thế ấy, chứ còn gì nữa! Rõ chuyện! Người có dáng vẻ thương gia nói.
– Nói thế nào, viết thế ấy, thì gọi là văn học sao được? Thế theo cậu, thì đem hết cả các từ chửi bậy, chửi tục… ngoài đời như thế nào mà bê hết vào văn học sao? Người đeo cặp kính trắng trả lời.
– Chứ sao! Có thế mới là người thực, việc thực, người đọc mới khoái chí và mới thích tìm đọc sách của mình chứ! Cậu rõ là rắc rối. Việc đơn giản như thế mà cũng hỏi! Người dáng thương gia nói.
– Tôi thì không nghĩ như vậy. Văn học là người, mà người có văn hóa, không ai lại bê nguyên xi cả những lời nói bậy, chửi bậy vào văn học cả. Anh có thể diễn tả lại nhân vật nọ, nhân vật kia với những lời nói bậy, nói tục của họ, nhưng không nên nhắc lại lời của họ, hoặc chỉ nên viết chữ cái đầu, chứ nếu anh ghi lại toàn bộ câu nói bậy, chửi bậy của họ, thì anh cũng chẳng khác gì người đó cả! Dù là anh chỉ định viết lại những lời chửi của họ với ý định giáo dục. Ông thấy không đấy, ngày nay, nhiều nhà văn, nhà thơ bê hết cả những lời chửi bậy hàng ngày, những “của qúy” của phụ nữ, đàn ông. tất tần tật bê vào tiểu thuyết, văn thơ của họ! Thật là xấu hổ khi phải đọc những chữ đó! Vừa rồi, có một nhà viết truyện nổi tiếng viết kịch bản, ông ta bê hết cả những lời chửi bậy và “của qúy” vào bài thơ trong tác phẩm của ông ta và thế là “trận chiến” văn học đã xảy ra! Ông cũng thấy đấy. Người thì cho đó là chuyện bình thường, vì chửi bậy thì đã sao? Viết cả “của qúy” của phụ nữ, đàn ông thì đã sao? Có nhà bình luận lại cho rằng, thế mới hay, xã hội phải cảm ơn nhà viết truyện ấy nữa, vì ông ta đã thật với chính mình, thật với nhân vật của mình! Có người còn cho là đi khắp thế giới và ngay cả trên đất nước ta, đâu đâu mà chẳng thấy “cái ấy” của phụ nữ, đàn ông phô trương trên những bức họa thời xưa và thời nay! Vậy sao văn học phải né tránh, phải viết tắt? Và như ông thấy đấy, cuộc tranh cãi đã xảy ra trên văn đàn về cách sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong giao tiếp và trong văn học, trong văn hóa mạng ra sao… Có cả những người có trách nhiệm yêu cầu áp dụng “phạt tiền” nói bậy nữa, ông thấy sao? Tôi thì tôi ủng hộ ý kiến này! Tại sao ư? Bởi vì viết bậy, nói bậy thì cũng chẳng khác gì người đó tự “cởi truồng” hay đang làm “chuyện ấy“ trước người khác vậy. Xã hội văn minh có chấp nhận người “cởi chuồng” hoặc làm “chuyện ấy“ trên đường phố, trong nơi làm việc, trường học, trước mặt mọi người trong gia đình… không? Không! Vậy nói tục, chửi bậy, phơi “của qúy” ra trang giấy, ra mạng ảo, ra trước mặt người khác tức là người đó đang “cởi chuồng“ hay đang làm “chuyện ấy“ ra trước mặt độc giả và người đối diện vậy! Tôi chắc chắn trăm phần trăm là khi đọc đến những dòng chữ viết bậy, chửi bậy, người có văn hóa dù là nam hay nữ đều đỏ mặt và xấu hổ! Ông cũng thấy đấy, có người đứng đầu một cơ quan, chỉ trích nhà viết truyện kia viết bậy, chửi bậy thế mà bài thơ của ông ta chửi nhà viết truyện kia cũng lặp y nguyên lời viết bậy, thế thì còn phê bình ai được nữa chứ! Loạn thật là loạn! Mấy cô ca sĩ, người mẫu mặc áo váy hơi hở hang liền bị khán giả chỉ trích và đã có luật phạt tiền họ rồi, nhất định nước ta phải có luật cấm viết bậy, nói bậy và phạt tiền những ai vi phạm thì tiếng Việt mới trở lại trong sáng được. Lập luận cho rằng “của qúy” của đàn ông và phụ nữ là thiêng liêng, là cao cả, nếu thiếu “của qúy” thì làm sao có thế giới loài người, cho nên viết hay nói kèm “của qúy” thì có sao là lập luận “cùn”, là thiếu suy nghĩ. Đừng nên biến tiếng Việt thành tiếng mà khi đọc hay nghe đến là thấy xấu hổ! Người đeo kích trắng nói một mạch trong sự chú ý lắng nghe của tất cả mọi người đang ngồi ở quán cóc.
– Hoan hô bác kính trắng! Hoan hô bài diễn thuyết của bác! Nhà em cũng hay nói bậy lắm, nghe bác nói mà em tự thấy xấu hổ với mình! Nhất định từ nay, em phải “uốn lưỡi bảy lần” trước khi nói, để không nói bậy, chửi bậy nữa mới được! Anh xe ôm vui vẻ nói.
Mọi người vỗ tay tán thưởng. Dòng xe chen chúc trên đường phố đã vơi dần ,nóng nực cũng dịu dần. Những cánh phượng chớm hé nụ hồng rung rinh trước gió như cũng gật gù tâm đắc… họ tạm biệt bà chủ quán và hẹn mai lại gặp nhau.
16.5.2012/Trần Kim Lan
Làng quan họ (Thơ: Nguyễn Phan Hách-MC: Phạm Thanh Tùng)
(Đây là nguyên tác bài thơ mà NS Nguyễn Trọng Tạo phỏng theo để cho ra đời bài hát bất hủ: “Làng quan họ quê tôi”)