RSS

Monthly Archives: Tháng Tư 2020

Quy tắc viết hoa trong tiếng Việt cần  lưu ý những điều gì?

Quy tắc viết hoa trong tiếng Việt cần 

lưu ý những điều gì?

Vấn đề viết Hoa là một trong những phần quan trọng về chính tả 
mà ai cũng cần biết. Sau đây là quy tắc viết hoa trong tiếng Việt đầy đủ nhất 
để bạn tham khảo và vận dụng cho đúng nhé.
Mặc dù trong ngôn ngữ tiếng Việt có rất nhiều thể loại văn bản khác nhau. Nhưng quy tắc viết hoa trong tiếng Việt giữa các văn bản này không có nhiều sự khác biệt, vẫn tồn tại ở đó những quy tắc chính tả, viết hoa trong văn bản xác định cần đúng quy chuẩn được đặt ra. Đặc biệt trong công cuộc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” nhằm mục đích thống nhất và chuẩn hóa ngôn ngữ tiếng Việt tốt hơn với mọi người. Trong đó, vấn đề viết hoa cũng là nội dung quan trọng và được nhiều người quan tâm trong vấn đề này. Viết hoa đúng theo quy định của tiếng Việt không phải là chuyện đơn giản. Bởi, tiếng Việt ngày nay sử dụng mẫu tự Latin nên có quy định về vấn đề viết hoa.
quy tắc viết hoa trong tiếng Việt
Quy tắc viết hoa trong tiếng Việt rất đa dạng mà bạn cần nắm vững lý thuyết để áp dụng vào viết đúng trong những trường hợp cụ thể. Dưới đây là những trường hợp mà bạn cần phải áp dụng quy tắc viết hoa trong tiếng Việt khi thực hiện các văn bản hay viết chữ.

1. Viết hoa phụ âm đầu của chữ đứng đầu câu

Bất kỳ trong trường hợp nào bạn mở đầu một câu đều cần phải viết hoa chữ cái đầu tiên, chữ đầu tiên nếu từ đó không có phụ âm đầu. Đó là sự đánh dấu mốc bắt đầu một câu để người đọc có thể nhận biết, giúp câu văn rõ ràng, mạnh lạc, ý tưởng khúc chiết, dễ tiếp thu. Quy định viết hoa này bắt buộc trong chuẩn chính tả tiếng Việt hiện đại, được thống nhất trên toàn quốc hay sử dụng tiếng Việt ở bất kì nơi đâu khi soạn thảo văn bản và sử dụng tiếng Việt đều cần tuân theo quy định này.
Theo các nhà nghiên cứu, quy định này xác lập chưa lâu lắm. Trong khi, chữ quốc ngữ ra đời vào thế kỷ 17, lúc đó chưa có quy định viết hoa này. Theo sách Phép giảng tám ngày của Alexandre De Rhodes in bản tiếng Latin – Việt năm 1651, quy định viết chữ quốc ngữ là “viết hoa ở đoạn xuống hàng và thụt đầu dòng” còn các câu trong đoạn văn sẽ viết thường tất kể cả chữ cái đầu.
Lối viết hoa chữ cái đầu của một từ xuất hiện vào tháng 4/1865 trên tờ báo Gia Định, tờ báo dùng chữ quốc ngữ đầu tiên ở nước ta. Từ đó, lối viết hoa chữ cái đầu này được áp dụng. Những trường hợp mở đầu một câu như sau:

1.1. Viết hoa sau dấu chấm

Mở đầu văn bản, mở đầu đoạn người ta đều viết hoa phụ âm/âm đầu của từ đầu tiên. Đặc biệt cứ sau dấu chấm câu, người ta phải viết hoa phụ âm đầu của từ đứng đầu câu kế tiếp. Cùng với dấu chấm câu còn có dấu chấm hỏi (?), dấu chấm than (!) còn gọi là dấu cảm thán là những dấu kết thúc một câu. Cho nên, từ đứng sau những dấu này đều phải viết hoa phụ âm/âm đầu tiên của từ.
Riêng dấu chấm lửng có những khác biệt một chút. Dấu chấm lửng có thể là để kết thúc một câu, có thể nằm ở giữa câu khi liệt kê hay do ý định của người viết để diễn tả sự ngắt quãng, gây bất ngờ hay muốn kéo dài về âm thanh. Do đó, khi dấu chấm lửng đứng ở cuối câu, từ đầu tiên của câu kế tiếp sẽ phải viết hoa theo quy định. Khi dấu chấm lửng đặt ở giữa câu với những chủ ý của người viết sẽ không viết hoa từ tiếp sau đó.
Ví dụ: Vườn hoa quả trồng nhiều loại cây như mít, chuối, cam, chanh… xanh tươi, rất sai quả.
Lòng ta rộn rã nỗi yêu thương… (trích thơ Hàn Mặc Tử)

1.2. Quy định về viết hoa sau dấu hai chấm

Từ đứng sau dấu hai chấm có trường hợp viết hoa, có trường hợp không. Quy định này vẫn chưa rõ ràng, thống nhất nên có nhiều ý kiến khác nhau.

1.3. Quy định về viết hoa sau dấu chấm phẩy

Đối với dấu chấm phẩy, quy định viết hoa cũng giống như trong dấu chấm lửng, tùy vào từng trường hợp mà viết hoa. Những câu văn ngăn bởi các dấu chấm phẩy khá độc lập về ngữ nghĩa, thông thường, chữ tiếp theo sau vẫn viết thường.
Trong các văn bản hành chính, đặc biệt ở phần “căn cứ”, “xét đề nghị” và “chiếu theo” nêu ở đầu đoạn sẽ xuống dòng và viết hoa theo quy định sau các dấu chấm phẩy.

2. Quy định về viết hoa tu từ

Thông thường, trong quy tắc viết hoa trong tiếng Việt, người ta sẽ không viết hoa danh từ chung nếu không nằm ở đầu câu. Riêng trong những trường hợp nhất định, người ta muốn nhấn mạnh một từ nào đó, muốn từ này mang sắc thái biểu cảm, người ta sẽ viết hoa. Ví dụ: Con Người, hai tiếng vang lên… (M.Gorki)
Như vậy, viết hoa danh từ chung thường thể hiện sự tôn kính, làm câu văn thêm độc đáo hơn. Đây gọi là lối viết hoa tu từ.
Những danh từ chung ghi tước vị, chức vụ, cấp bậc hoặc những yếu tố gắn với tên riêng như các bậc danh nhân thường áp dụng cách viết hoa tu từ. Tuy nhiên, thực tế, cách viết này cũng đa dạng, không có sự thống nhất.
Ví dụ: Phù Đổng Thiên Vương hoặc Phù Đổng thiên vương hay Phù Đổng Thiên vương. Cũng như người ta thường phân vân không biết viết chúa Nguyễn, chúa Trịnh hay Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh; vua Lê, vua Nguyễn hay Vua Lê, Vua Nguyễn. Viết chữ nghè Tân, trạng Quỳnh, tú Xương… hay Nghè Tân, Trạng Quỳnh, Tú Xương… Do đó, đây là hai cách viết vẫn được mọi người sử dụng hiện nay, chưa có sự thống nhất.
Lối viết hoa tu từ có trước so với lối viết hoa cú pháp. Xuất hiện từ khi có chữ quốc ngữ vào thế kỷ 17, viết hoa tu từ và viết hoa cú pháp đều được người Việt sử dụng lâu nay.
Tuy nhiên, cách viết hoa này có một số điểm sẽ đối lập với danh từ chung và danh từ riêng, đặc biệt trong cách viết hoa gọi tên cơ quan, tổ chức, đoàn thể và sản phẩm. Trong khi đó, cách viết hoa là để phân biệt giữa danh từ riêng và chung trong cách thể hiện văn bản.

3. Quy định về cách viết hoa trong tiếng Việt với danh từ riêng

Theo định nghĩa ấn phẩm Hoạt động của từ tiếng Việt của Đái Xuân Ninh biên soạn do NXB Khoa học xã hội, HN 1978, danh từ riêng chỉ tên gọi của một vật, một người hay một tập thể riêng biệt. Xét về chức năng ý nghĩa, danh từ riêng và danh từ chung có sự phân biệt rõ ràng. Trong đó, danh từ chung dùng để gọi tên một loạt sự vật, không gọi riêng từng sự vật riêng. Điểm khác biệt với danh từ riêng là danh từ chung sẽ chứa đựng nội dung ý nghĩa nhất định, bao gồm cả tên gọi một sự vật duy nhất như mặt trăng, mặt trời.
Trong quy định về văn bản tiếng Việt, danh từ riêng có điểm đặc thù là bao giờ cũng viết hoa. Tuy nhiên, trong chuyên luận Tiếng Việt trên đường phát triển – NXB Khoa học xã hội, HN 1982 có viết hoa danh từ riêng không có sự ổn định và thống nhất theo một chuẩn riêng. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét quy định viết hoa họ tên người và địa danh để thấy sự đa dạng.
Quy tắc viết hoa danh từ riêng trong tiếng Việt mà bạn cần biết.

3.1. Quy định cách viết hoa họ tên người

Dù cùng một họ tên người nhưng người ta sử dụng song song nhiều cách viết hoa khác nhau lâu nay. Ví dụ viết họ tên người Công Huyền Tôn Nữ Lưu Ly hay Công huyện tôn nữ lưu Ly, Công huyền Tôn nữ Lưu Ly, Công – Huyền – Tôn – Nữ – Lưu Ly.

3.2. Quy định cách viết hoa tên địa danh

Quy định cách viết hoa địa danh cũng tồn tại nhiều cách khác nhau. Ví dụ như cách viết Sài Gòn, Sài-Gòn, Sài gòn… Vào năm 1984, theo Quyết định số 240/QĐ, thống nhất trên toàn quốc về chuẩn chính tả, về quy tắc viết hoa trong tiếng Việt do Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình ký như sau: Cách viết tên người, tên nơi chốn sẽ viết hoa chữ cái đầu là phụ âm/âm đầu không dùng gạch nối. Ví dụ như Quang Trung, Vũng Tàu, Hà Nội… Chuẩn chính tả này áp dụng trong tất cả các văn bản.
Nhưng thực tế, nhiều người vẫn băn khoăn viết miền Nam hay Miền Nam, Bắc Bộ hay Bắc bộ. Đặc biệt thêm tọa độ càng lúng túng hơn như miền cực Nam Trung Bộ hay Miền Cực Nam Trung Bộ hay miền cực nam Trung Bộ? Viết là sông Hồng hay Sông Hồng, Đồng Bằng Sông Cửu Long hay đồng bằng sông Cửu Long.
Thêm nữa viết hoa cấp bậc, tước vị, biệt hiệu hay chức vụ không cũng chưa có sự thống nhất chuẩn. Ví dụ như viết Xuân tóc đỏ hay Xuân Tóc Đỏ…

3.3. Quy định cách viết hoa tên riêng không phải tiếng Việt

Trường hợp viết tiếng nước ngoài du nhập, không phải tiếng Việt được quy định trong Quyết định 240/QĐ trong Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt có ghi:
* Nếu tên riêng dùng nguyên chữ của chữ cái Latin sẽ giữ đúng nguyên bản tất cả các chữ cái còn dấu phụ trong nguyên ngữ có thể lược đi. Ví dụ như tên Paris, Petofi, Shakespeare…
* Nếu tên riêng có nguyên ngữ thuộc hệ thống chữ cái khác tiếng Việt sẽ dùng lối chuyển từ sang chữ cái Latin. Ví dụ Moskva, Lomonosov
* Nếu tên riêng có nguyên ngữ không ghi từng âm bằng chữ cái sẽ dùng lối phiên âm chính thức của chữ cái Latin. Đó là cách phiên âm được dùng trên thế giới phổ biến. Ví dụ như Kyoto, Tokyo…
* Nếu tên riêng được sử dụng rộng rãi trên thế giới theo hệ thống chữ cái Latin khác với nguyên ngữ sẽ dùng tên riêng vẫn được mọi người dùng. Ví dụ như Bangkok có nguyên ngữ là Krung Thep hay Hungary có nguyên ngữ là Magyarorszag.
* Trường hợp tên viết sông núi sẽ dùng tên gọi phổ biến mà thế giới thường dùng vì sông núi rộng lớn có mặt ở nhiều quốc gia lãnh thổ. Đồng thời, những tên riêng theo từng địa phương vẫn có mặt ở những văn bản khác nhất định. Ví dụ như sông Danube/Duna/Donau/Dunares…
* Sẽ dùng lối dịch nghĩa phù hợp cho những tên riêng, bộ phận tên riêng có nghĩa. Ví dụ như Guinea xích đạo, Biển Đen.
* Tên riêng có phiên âm quen dùng trong tiếng Việt sẽ không cần thay đổi trừ trường hợp có yêu cầu đặc biệt. Ví dụ như Bắc Kinh, Pháp, Hy Lạp hay Lỗ Tấn… Có khác biệt như Ý hay Italia, Úc hay Australia. Có một số tên riêng sử dụng các cách viết, tên gọi khác như La Mã hay Roma…
* Trong ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tên riêng không phải tiếng Kinh cũng khó có sự thống nhất. Nhiều tên riêng được viết theo các kiểu khác nhau vẫn tồn tại như Moskva/Moscou/Moscow/Mát-xcơ-va/Matxcơva/Mạc Tư Khoa hay Shakespeare/Sếch-xpia/Xêchxpia.
* Trường hợp danh từ chung như mặt trời/quả đất theo quy định sẽ không viết hoa nhưng sách báo vẫn in Mặt trời/Quả đất. Nếu xét trên bình diện danh từ chung và danh từ riêng, trường hợp này rất dễ nhầm lẫm.

4. Quy định về quy tắc viết hoa trong tiếng Việt để biệt hóa tên cơ quan, tổ chức, đoàn thể và sản phẩm

Những tên riêng của cơ quan, tổ chức, công ty, xí nghiệp, đoàn thể hay sở, ban, trường học, phòng và sản phẩm sẽ là những danh từ riêng hoặc chỉ chứa một vài danh tư riêng. Theo bản Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt với Quyết định 240/QĐ quy định:
Quy tắc viết hoa tên riêng cơ quan, công ty, xí nghiệp trong tiếng Việt.

4.1. Quy định về viết hoa tên riêng của các cơ quan, tổ chức

* Viết hoa chữ cái đầu/âm tiết đầu của từ đầu tiên trong tổ hợp từ dùng gọi tên riêng của tổ chức, cơ quan. Ví dụ Trường đại học ngoại ngữ Hà Nội, Trường đại học công nghiệp Hà Nội… Nhưng trong văn bản lại in rõ Bộ Giáo Dục. Từ “Bộ Giáo Dục” là ngược với quy định về quy tắc viết hoa trong tiếng Việt trong nội dung văn bản quyết định. Lẽ ra phải viết là Bộ giáo dục mới đúng quy chuẩn.
Trong khi đó, thực tế cũng không áp dụng nghiêm túc điều này vì những lý do: Nhiều khi tên gọi của các cơ quan, xí nghiệp, đoàn thể thường rất dài, bao gồm đầy đủ cấp độ của tổ chức, cơ quan đó trong hệ thống nào đấy. Ví dụ, Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất, thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu lương thực, thực phẩm…, Trường đại học công nghiệp, kỹ thuật Hưng Yên.
* Nhiều trường hợp, danh từ chung sử dụng làm danh từ riêng khi gọi tên sản phẩm hay cơ quan. Cách viết cũng tồn tại nhiều kiểu. Ví dụ như Tạp chí Tài Hoa Trẻ/Tài hoa trẻ, Báo Giáo dục và Thời đại/Giáo dục và Thời đại/Giáo Dục và Thời Đại. Nhưng người ta thường viết hoa tất cả các cụm từ như Thế Giới Mới, Khoa Học Phổ Thông, Nhân Dân… Theo đó, có người cho rằng tên các tác phẩm cũng phải viết hoa cả cụm từ như tiểu thuyết Gánh Hàng Hoa, tập truyện Anh Phải Sống hay bức tranh Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ… Thậm chí có người cho rằng viết hoa tất cả như Xí Nghiệp Bóng Đèn-Phích Nước Rạng Đông Hà Nội.

4.2. Xu hướng viết hoa không theo âm tiết mà theo từ đối với tên gọi cơ quan, tổ chức

Xu hướng viết hoa tên gọi cơ quan, tổ chức hiện nay có nhiều cách khác nhau, chưa có thống nhất chung và sử dụng. Tuy nhiên, người ta thường viết hoa chữ cái đầu của từ đầu tiên và các từ của bộ phận tạo thành tên riêng như Bộ Thông tin, Tuyên truyền, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà hát Cải Lương Trần Hữu Trang, Hội sinh viên Việt Nam, Phòng Nghiên cứu khoa học. Nhưng có trường hợp viết Nhà hát Tuồng Đào Tấn lại dễ gây ngộ nhận nên cần viết là Nhà hát tuồng Đào Tấn nhưng không có nhiều.
Vì chưa có sự thống nhất nên những chuyên gia ngôn ngữ cho rằng cần chuẩn hóa chính tả tiếng Việt càng sớm càng tốt để có sự nhất trí cao dựa trên cơ sở khoa học áp dụng cho tiếng Việt. Để khắc phục tình trạng rối rắm trong cách viết hoa như hiện nay, chúng ta cần có những khảo sát và nghiên cứu triệt để.
Với những thông tin chia sẻ về quy tắc viết hoa trong tiếng Việt ở trên, bạn có thể tham khảo để thấy sự đa dạng của tiếng Việt và có thể linh hoạt sử dụng sao cho phù hợp, theo chính tả phổ biến với xu hướng mà mọi người dùng hiện nay cho tới khi có quy chuẩn chung nhất áp dụng trong tiếng Việt. 
(Sưu tầm)
 

Gần 70 trận dịch bệnh ở Việt Nam thế kỷ 19, thi hào Nguyễn Du qua đời vì dịch

Gần 70 trận dịch bệnh ở Việt Nam thế kỷ 19, thi hào Nguyễn Du qua đời vì dịch

29/02/2020 17:13 GMT+7

TTO – Chỉ riêng trong Đại Nam thực lục thấy chép gần 70 trận dịch lớn nhỏ trong thời gian 75 năm (từ năm 1820 đến 1895, trung bình hơn 1 năm xảy ra 1 trận).

Gần 70 trận dịch bệnh ở Việt Nam thế kỷ 19, thi hào Nguyễn Du qua đời vì dịch - Ảnh 1.
Những nhân viên kiểm tra trên đường phố Hong Kong trong đợt dịch hạch những năm 1890. Dịch hạch toàn cầu lần thứ ba bắt đầu năm 1855 ở Vân Nam, Trung Quốc, được cho là đã khiến hơn 12 triệu người thiệt mạng – Ảnh: CNN
Sử nước ta, do giới hạn về kiến thức khoa học cộng với quan niệm dịch bệnh do trời, nên hạn chế ở phần miêu thuật tình trạng cá nhân người bệnh cũng như những diễn biến dịch bệnh trong cộng đồng. Nhưng ở góc độ khác, công tác hành chánh khá tiến bộ qua việc thống kê tử vong rất sát sao, việc chẩn cấp ủy lạo trong những trận dịch, cho quân dân nghỉ ngơi hoặc miễn thuế sau dịch… có thể cho người thời nay phần nào thấy được sự quý trọng sinh mạng dân đen.
Dịch bệnh được ghi nhận trong lịch sử Việt Nam rất sơ lược, suốt trong Đại Việt sử ký toàn thư (từ khởi thủy đến năm 1789) chỉ đề cập 9 lần xảy ra dịch bệnh, lần đầu thấy chép vào năm 1100 (Lý Nhân Tông, năm Canh Thìn).
Cái chết của một thi hào
Trong số 9 lần ấy, với những ghi nhận tối giản của sử quan, người sau chỉ có thể biết được có 5 trận dịch với phạm vi lan rộng toàn quốc (toàn miền Bắc), 4 trận thuộc phạm vi địa phương như Lạng Sơn, Quốc Oai, Tam Đái, Sơn Tây, Nghệ An. Trận dịch trầm trọng nhất được biết là tại các huyện thuộc Sơn Tây hồi tháng 10-1757, dân chết do bệnh dịch và đói lên đến 8, 9 phần.
Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn ghi chép có khá hơn những sách sử trước đó, không gian địa lý của thời này cũng tương ứng với nước ta ngày nay, nên những ghi nhận này có thể phản ánh bao quát tình hình dịch bệnh toàn quốc trong thế kỷ 19. Có thể còn thiếu sót do chưa rà soát kỹ nhiều nguồn sử liệu, trước mắt chỉ riêng trong Đại Nam thực lục thấy chép gần 70 trận dịch lớn nhỏ trong thời gian 75 năm (từ năm 1820 đến 1895, trung bình hơn 1 năm xảy ra 1 trận).
Tần suất kể trên khá dày nếu so với tình hình dịch bệnh ở Trung Quốc, theo thống kê của Trương Đại Khánh (Trung Quốc cận đại tật bệnh xã hội sử, NXB Giáo Dục Sơn Đông, 2006), dịch bệnh thời nhà Thanh (1644-1911) ghi nhận trong Thanh sử cảo là 98 trận lớn với cấp độ nguy hại nghiêm trọng (trong 267 năm, trung bình hai năm rưỡi 1 trận).
Tuy ghi chép vắn tắt nhưng Đại Nam thực lục đã cho biết cụ thể nhiều số liệu quan trọng, đó là những báo cáo tổng kết sau dịch từ các địa phương gửi về, hoặc sự tổng hợp báo cáo đối với những trận dịch phạm vi toàn quốc. Ba trận đại dịch đáng lưu ý là trận dịch tả năm 1820, trận dịch (chưa rõ tên) năm 1849 và trận dịch đậu mùa năm 1888.
Năm 1820 (Minh Mạng năm đầu), tháng 6 dịch khởi phát ở các trấn Hà Tiên, Vĩnh Thanh, Định Tường (ứng với khu vực Tây Nam Bộ) rồi lan ra toàn quốc, đến tháng 12 mới ngưng, quân và dân đều mắc, số tử vong thống kê được là 206.835 người (dân số lúc này khoảng 7 triệu), triều đình phát chẩn đến 73 vạn quan tiền. Tuy không chép rõ tên dịch bệnh nhưng qua câu “Vua lấy bạch đậu khấu trong kho và phương thuốc chữa dịch sai người ban cấp”, có thể biết đây là trận dịch tả. Thi hào Nguyễn Du chết trong trận dịch này.
Sau Việt Nam, Trung Quốc phải hứng chịu trận dịch này suốt năm 1821, phần “Chí”, mục “Tai dị” trong Thanh sử cảo ghi nhận dịch phát vào tháng 3 tại huyện Nhâm Khâu (Hà Bắc), sau đó bùng phát ở khoảng 30 địa phương của nhiều tỉnh, tuy không ghi con số thống kê tử vong cụ thể nhưng mô tả các nơi đều là đại dịch, người chết vô số, không đếm xuể.
Trên bình diện quốc tế, theo giới nghiên cứu lịch sử bệnh truyền nhiễm Trung Quốc thì nguồn cơn trận dịch tả này khởi phát ở Ấn Độ vào năm 1817, sau đó theo các thuyền buôn lan về phía đông đến khắp Đông Nam Á rồi Trung Quốc, lan về phía tây đến các xứ ven Địa Trung Hải. 
Thực lục chép “dịch phát ở Hà Tiên rồi lan ra toàn quốc”, và trong khi vua Minh Mạng còn đang lo cầu đảo với tâm trí rối bời bảo các quan: “Theo sách vở chép thì bệnh dịch chẳng qua chỉ một châu một huyện, chưa có bao giờ theo mặt đất lan khắp như ngày nay”, thì Phạm Đăng Hưng tâu rằng “thần nghe dịch bệnh từ Tây dương sang”. 
Lời tâu của Phạm Đăng Hưng cho thấy triều thần đã có người biết dịch bệnh truyền nhiễm từ xa, mà nay thấy khế hợp với vấn đề nguồn gốc lây truyền dịch bệnh qua các thuyền buôn đến từ Ấn Độ mà các học giả Trung Quốc nêu ra.
Trận lớn hơn xảy ra vào năm 1849 (Tự Đức năm thứ 2), số người chết gấp 3 lần so với trận năm 1820. Tháng 7, kinh sư và nhiều tỉnh phát dịch, hoãn kỳ thi. Tháng 12, ghi nhận số người chết ở Vĩnh Long đến 43.400, ở Quảng Bình chết 23.300 người (còn ở nhiều tỉnh khác chưa báo cáo). Tháng 1-1850, thống kê của Bộ Hộ cho biết số tử vong trong năm 1849 là 589.460 người (dân số lúc này khoảng 8 triệu). Trận dịch này cực lớn nhưng thông tin rất ít, không nói tên dịch bệnh, chỉ nói dịch tràn lan do khí độc (癘氣/lệ khí) phát tán.
Những năm kế tiếp lại thêm nhiều trận rất lớn ở các tỉnh từ Quảng Trị ra Bắc, như năm 1851 ở Lạng Sơn dịch bệnh kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11, tử vong đến 4.480 người; và thống kê trong hai năm 1852-1853 ở một số tỉnh Bắc Kỳ cho thấy số tử vong đến 9.074 người.
Những trận dịch phạm vi vùng miền hoặc tỉnh, huyện cấp độ khá lớn có thể kể vào các năm 1863, 1875, 1876, 1887, 1888. Từ tháng giêng đến tháng 5-1863, dịch bệnh ở Thừa Thiên, Quảng Trị, Định Tường nghiêm trọng: Quảng Trị chết 2.600 người, Định Tường chết 1.670 người, tháng 8 năm này dân Nam Kỳ lâm nạn đói. Tháng 11-1875, dịch bệnh cùng lúc phát ở nhiều tỉnh như Hà Nội, Ninh Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Hải Dương, Nam Định, Thái Nguyên, Sơn Tây, Tuyên Quang, Phú Yên, Bình Thuận, nặng nhất là ở Khánh Hòa. 
Địa bàn cấp huyện bị trận dịch nặng nề nhất là Triệu Phong (tỉnh Quảng Trị), trong 2 năm 1876-1877 số tử vong lên đến 4.326 người. Năm 1887, ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa dịch phát từ tháng 4 đến tháng 9 mới lắng, số liệu riêng tỉnh Thanh Hóa chết đến 9.500 người.
Những ghi chép quý về chủng ngừa
Từ tháng 11-1887 đến tháng 6-1888, trận dịch đậu mùa hoành hành dữ dội ở tỉnh Quảng Ngãi, thống kê thấy cả đàn ông và đàn bà chết 13.934 người. Triều đình Huế phải phối hợp với thầy thuốc Tây lo việc chủng ngừa đậu mùa diện rộng cho người dân. Bệnh đậu mùa trong ghi chép thấy xuất hiện năm 1801 qua cái chết của Đông cung Cảnh tại Gia Định, năm này không nói có dịch trong dân nhưng lại chép rõ tên bệnh làm chết Đông cung.
Tại Trung Quốc, trận dịch đậu mùa khủng khiếp được ghi nhận vào năm 1530 (Minh Gia Tĩnh thứ 9) trong sách Đậu chứng lý biện, với mô tả dân chết hơn nửa phần. Việc chủng đậu theo y thuật Tây phương được thực hiện lần đầu năm 1805 tại Áo Môn, cùng lúc với sự kiện xuất bản tài liệu Anh Cát Lợi quốc tân xuất chủng đậu kỳ thư (Phép chủng đậu mới lạ ở nước Anh) bằng tiếng Trung do bác sĩ của Công ty Đông Ấn Anh A. Pearson biên soạn. 
Việc này được tiếp tục vào những năm 1815 tại Quảng Châu, năm 1841 tại Thượng Hải, năm 1861 tại Triệu Khánh (Quảng Đông), năm 1863 tại Phật Sơn (Quảng Đông), 1864 tại Bắc Kinh, 1882 tại Cửu Giang (Giang Tây), 1883 tại Nghi Xương (Hồ Bắc), 1886 tại Trấn Giang (Giang Tô), 1890 tại Thành Đô (Tứ Xuyên) [theo Bành Trạch Ích, Tây Dương chủng đậu pháp sơ truyền Trung Quốc khảo, tạp chí Khoa Học, số 32, 7-1950].
Sử nước ta nói chung và Đại Nam thực lục nói riêng ghi chép dịch bệnh quá đỗi sơ lược, thi thoảng mới chép rõ tên dịch bệnh, còn phần lớn chỉ nói chung chung là “dịch” hoặc “đại dịch”. Trận dịch lớn năm 1820 gián tiếp có thể nhận định là dịch tả, trận dịch năm 1888 ở Quảng Ngãi được chép rõ là dịch đậu mùa, còn trận cực lớn năm 1849 vẫn chưa rõ tên dịch. Ở Trung Quốc, Trương Đại Khánh thống kê trong 50 năm (1840-1910) có 3 loại dịch bệnh xảy ra nhiều nhất là: dịch tả (霍乱/hoắc loạn) 45 lần, dịch hạch (鼠疫/thử dịch) 34 lần, đậu mùa (天花/thiên hoa) 11 lần.
Sử nước ta, nói riêng trong Đại Nam thực lục, do giới hạn về kiến thức khoa học cộng với quan niệm dịch bệnh do trời, nên hạn chế ở phần miêu thuật tình trạng cá nhân người bệnh cũng như những diễn biến dịch bệnh trong cộng đồng. Nhưng ở góc độ khác, công tác hành chánh khá tiến bộ qua việc thống kê tử vong rất sát sao, việc chẩn cấp ủy lạo trong những trận dịch, cho quân dân nghỉ ngơi hoặc miễn thuế sau dịch… có thể cho người thời nay phần nào thấy được sự quý trọng sinh mạng dân đen của triều đình, có lẽ là điểm sáng đáng nói trong hoạt động xã hội thời nhà Nguyễn.
Tin nhảm về dịch bệnh
Viên Mai chép trong Tùy Viên thi thoại (quyển 2): “Danh y Tô Châu Tiết Sanh Bạch nói bừa rằng: Trước thời Tây Hán, không nghe nói trẻ con mắc bệnh đậu mùa. Từ lúc Mã Phục Ba (Viện) đi đánh Giao Chỉ, lính tráng mang bệnh về, gọi là lỗ sang (虜瘡/bệnh mụn rợ), không phải tên bệnh đậu (痘)”.
Viên Mai (Tử Tài) nổi tiếng văn đàn thời Thanh, nhưng làm sách lại để lọt tin nhảm, hỏng biết Tiết danh y nghe vụ này ở đâu, bởi từ Tây Hán về trước không riêng đậu mùa mà nhiều chứng dịch khác cũng đều chưa rõ tên, sử chỉ chép chung là dịch tật, dịch bệnh. Mặt khác, Truyện Mã Viện trong Hậu Hán thư không thấy nói bệnh lỗ sang, mà chỉ nói: “Kiến Võ thứ 20, Giáp Thìn (44 sau CN), Mã Viện chinh Giao Chỉ, quan quân trải chướng dịch, mười phần chết hết bốn, năm”. Chướng dịch (瘴疫) hay chướng lệ (瘴癘) là bệnh do nhiễm khí độc rừng núi, về sau cũng chỉ sốt rét.
Đừng để cuộc sống quá căng thẳng vì dịch bệnhĐừng để cuộc sống quá căng thẳng vì dịch bệnh

TTO – Không còn co cụm, ‘tự cách ly’ trong những lo lắng quá đáng, những ngày này nhiều người đã chọn một tâm thế khác, điều chỉnh lại nếp sống, thói quen sinh hoạt, xây dựng nền tảng hệ miễn dịch khỏe mạnh, sức đề kháng tốt để sống vui, khỏe hơn.

 

PHẠM HOÀNG QUÂN
 

Bệnh dịch và số phận của con người xã hội

Bệnh dịch và số phận của con người xã hội
22/02/2020 07:30 – Vũ Đức Liêm
Bệnh dịch không chỉ thử thách sức đề kháng của con người sinh học, chúng là chất thử nghiệt ngã đối với con người xã hội, kinh tế và chính trị. Sau hàng triệu năm tiến hóa sinh học và kỹ thuật tổ chức xã hội, có lẽ nỗi ám ảnh này sẽ chưa mất đi trong tương lai gần.

Bức họa Khải hoàn của thần chết (Pieter Bruegel the Elder, c. 1562.)


Mùa thu năm 1820, tham tri Lễ bộ Nguyễn Du đang chuẩn bị cuộc hành trình sang Bắc Kinh. Vị quan chức được nhà vua mới lên ngôi Minh Mệnh cử đi sứ trong một nhiệm vụ đặc biệt: báo tang vua cha Gia Long và xin cầu phong. Không may là một trận dịch tả đã tràn qua Việt Nam vào thời điểm đó, và nhà thi hào cùng với hàng trăm nghìn người Việt khác đã bỏ mạng. Trận dịch này bắt đầu từ năm 1816, quét qua Ấn Độ từ 1820 và bắt đầu vào Việt Nam trong cùng năm, lan từ Hà Tiên lên Bắc thành. Sử nhà Nguyễn thống kê: số hộ khẩu chết tất cả là 206.835 người, không kể số nam phụ lão ấu ở ngoài hộ tịch. Nhà nước bỏ ra 730.000 quan tiền để cứu chẩn, mai táng.

Với quy mô dân số Việt Nam dưới 10 triệu người vào đầu thế kỷ XIX, hơn 4% dân số đã bị thiệt mạng. Nếu một trận dịch với tỉ lệ tương tự vào năm 2020, 4 triệu người Việt Nam sẽ bị đe dọa tính mạng.

Dịch bệnh không chỉ là vấn đề y tế, đó là số phận của con người, của xã hội loài người, của thể chế chính trị, và của các nền văn minh. Sự chết chóc do chúng mang lại không chỉ phản ánh các hệ quả sinh học lên giống loài mà còn hưng vong triều đại, thăng trầm xã hội và thịnh suy đế chế và sự cân bằng chính trị-quân sự toàn cầu. Cung nỏ, vó ngự, thuốc súng có sức mạnh kiến tạo hay hủy diệt xã hội, và vi trùng cũng thế. Vào đầu thế kỷ XVI, những kẻ chinh phục Tây Ban Nha mang theo gươm, súng và ngựa cập bến một châu lục vừa được khám phá: châu Mỹ, với mục tiêu chinh phục đế chế Inca vĩ đại. Thực tế, bệnh đậu mùa mà họ mang theo mới chính là vũ khí chết chóc nhất, khiến cho hơn một nửa dân bản địa mất mạng. Trong số này có nhà vua Huayna Cupac. Cái chết của ông đẩy người Inca vào nội chiến, hỗn loạn, và đưa tới việc Francisco Pizarro với đạo quân 168 người có thể đánh chiếm một vùng lãnh thổ bằng cả Italia và Tây Ban Nha cộng lại.
Sự `mong manh’ của các cấu trúc chính trị-xã hội
Tại sao bệnh dịch lại là vấn đề ám ảnh loài người?

Việc sống tập trung tại các đồng bằng và thành thị là một điểm yếu “sinh học” của loài người. Dân số đủ đông để dịch bệnh tồn tại liên tục và có thể tạo ra nguy cơ bùng nổ dịch bất cứ lúc nào. Lấy đậu mùa làm ví dụ. Dù khảo cổ học tìm thấy dấu vết của chúng từ cách nay 350.000 năm tuy nhiên bằng chứng về sự lan rộng của chúng chỉ thực sự gia tăng từ khoảng 10.000 năm TCN. Không phải ngẫu nhiên mà đó là thời điểm xuất hiện nông nghiệp và con người bắt đầu xác lập các khu định cư ở vùng Trung Đông. Các xã hội có tập hợp khoảng 100.000 đến 200.000 dân là đủ để cho các mầm bệnh duy trì thường xuyên. Nguy cơ đó rõ ràng là lớn gấp nhiều lần ở các thành phố hơn hai mươi triệu dân như Mexico City hay Thượng Hải. Làm nông nghiệp và thuần hóa động vật là một cầu nối khác giữa con người với các virus. Với việc thuần hóa động vật, chúng ta không chỉ mời bò, gà, lợn, cừu… vào nhà mà còn cả một thế giới các đạo quân sinh học khác, từ chuột tới các loài vi khuẩn gắn liền với các động vật này. Điều nghiêm trọng hơn là các động vật này là cầu nối nhiều loài vi rút có mặt ở nhiều giống loài tự nhiên đối với con người. Lấy chủng virus Corona làm ví dụ. Báo cáo gần đây của WHO cho thấy có nhiều bằng chứng virus corona chủng mới có mối liên hệ với các loại virus corona tương tự được biết tới ở dơi, cụ thể là ở phân loài dơi Rhinolophus có địa bàn phân bố ở miền Nam Trung Quốc, và châu Á, châu Phi. Riêng tại các hang dơi ở Trung Quốc đã tìm thấy 500 loại virus corona khác nhau. Nghiên cứu huyết thanh học được tiến hành với người dân nông thôn sống gần các hang động có dơi sinh sống cho thấy tỉ lệ huyết thanh dương tính với virus corona ở phân loài dơi này là 2,9%. Điều này cho thấy sự tiếp xúc giữa con người với dơi có thể phổ biến mặc dù mắt xích trung gian của sự lan truyền virus này vẫn chưa được nhận dạng.
Các bức tường thành, làng xóm, các thành phố và đô thị là không gian lí tưởng cho bệnh dịch. Dân cư đông đúc và tình trạng kém vệ sinh là môi trường để các loài động vật cư trú bên cạnh con người, trong khi thương mại, chiến tranh, du hành, hành hương, truyền giáo, và các quá trình khác của toàn cầu hóa thúc đẩy sự lan truyền của bệnh dịch với quy mô chưa từng có.

“Cái chết đen” là một trong các ví dụ tiêu biểu về cách thức một bệnh dịch trong vòng bốn năm đã thay đổi diện mạo của thế giới và nền văn minh nhân loại.

Cái chết đen ám chỉ tới trận dịch hạch lan tràn trên lục địa Á-Âu giữa thế kỷ XIV. Nổi tiếng trên khắp châu Âu với tên gọi Cái chết đen, dịch bệnh này được cho là gây ra bởi vi khuẩn Yersinia pestis và lây lan thông qua loài bọ chét sống trên chuột đen. Quy mô của bệnh dịch này cũng tiến hóa theo bước đi của lịch sử nhân loại, gắn liền với ba trận dịch lớn có quy mô toàn cầu:
1. Trận dịch thời Justinian (541).
2. Cái chết đen (1348).
3. Trận dịch thứ ba (1855).

Chúng là những ví dụ cho thấy sự ‘mong manh’ của các cấu trúc chính trị-xã hội của con người, đồng thời phản ánh hệ quả của quá trình toàn cầu hóa, chiến tranh, thương mại và mở rộng đế chế đã tạo ra các mạng lưới mà theo đó không chỉ có tơ lụa mà chuột và vi khuẩn cũng được du hành toàn cầu.

Gắn liền với chúng là vận mệnh của hàng trăm triệu người, hưng vong của nhiều triều đại, xã hội và đế chế. Đó là vào năm 1344, Janibeg-Hãn của Kim Trướng Hãn Quốc (một nước Hồi giáo do người Mông Cổ thiết lập ở Trung Á) tiến hành cuộc tấn công vào bán đảo Crimea và bao vây thành phố Caffa (ngày nay là Feodosia). Thành phố này là một trung tâm thương mại chiến lược trên biển Đen và đang nằm dưới sự kiểm soát của các thương nhân Genoa. Khi chiến thắng đang ở tầm tay, đạo quân Mông Cổ bất ngờ bị dịch hạch vào tháng 10/1346. Quân lính bị chết chỉ sau 7-10 ngày nhiễm bệnh.

Trong sự tuyệt vọng, Janibeg cho lính thu thập xác người bị dịch hạch và ném vào trong thành. Đây là câu chuyện đầu tiên về việc con người sử dụng “vũ khí sinh học” trong chiến tranh. Vào tháng 10/1347, Janibeg chiếm được thành phố và những thương nhân Genoa chạy về Italia. Bệnh dịch nhanh chóng theo chân họ về đảo Sicily và sau đó là Genoa. Tới mùa hè năm 1348, Marseilles và Paris trở thành các nạn nhân tiếp theo. Năm sau đó, chúng xuất hiện ở vùng thung lũng sông Rhine và tràn vào vùng đất ngày nay là lãnh thổ nước Đức. Ở phía Tây, dịch bệnh cũng vượt qua eo biển tới London, trong khi một năm sau đó, chúng chinh phục Denmark và bán đảo Scandinavia (nơi 60% dân Norway được cho là bỏ mạng).

Vào lúc đỉnh điểm của các trận dịch này, có 800 người chết ở Paris một ngày. Con số này ở Pisa là 500 và 600 ở Vienna. Một nửa dân số của thành phố Siena đã chết trong vòng một năm. Tương tự Floren mất 50.000 dân trên tổng số 100.000 người. Người chép sử của thành phố Siena là Agnolo di Tura đã than khóc:

“Không từ nào có thể tả hết tính chất khủng khiếp của những sự kiện này… Tôi đã chính tay mình chôn cất năm đứa con trai của mình”.
Sử gia người anh Alistair Horne ước tính trong vòng bốn năm từ khi Janibeg ném các xác chết vào thành Caffa, một phần ba dân số thế giới từ Iceland tới Ấn Độ đã bị thiệt mạng. Những thống kê khác chỉ ra con số khoảng 50% dân số thế giới đã bị chết, và con số này có thể vào khoảng 75-100 triệu người.

Trận dịch hạch lớn cuối cùng là vào năm 1855, bắt đầu ở Trung Quốc, và đã giết chết 10 triệu người chỉ riêng ở Ấn Độ. Chỉ đến năm 1895 bác sĩ Alexandre Yersin mới tìm ra nguyên nhân của dịch này khi nghiên cứu sự bùng phát ở Hong Kong.



 Vũ điệu tử thần (trong Biên niên sử Nuremberg).

Câu chuyện về các trận dịch, vì thế, là câu chuyện về số phận, trình độ kỹ thuật, và khả năng tổ chức của các xã hội người. Nó giúp chúng ta hiểu thêm về tình hình sức khỏe, vệ sinh, sức đề kháng của xã hội, mô hình thể chế hay khả năng thích ứng của các hệ thống chính trị. Hãy lấy cuộc viễn chinh của Napoleon vào nước Nga làm ví dụ. Năm 2001, các công nhân xây dựng tìm thấy một hố chôn tập thể khoảng 2.000-3.000 người tại Vilnus, Lithuania. Từ các bộ đồng phục và huy hiệu, đồng phục… người ta tin rằng đạo quân này chính là những người lính Pháp được chôn cất vội vã trên đường tháo chạy khỏi nước Nga vào năm 1812. Điều đáng chú ý là các nhà khoa học tìm ra nguyên nhân cái chết của 1/3 những người lính này là do sốt phát ban. Đây là một chỉ dấu quan trọng góp thêm những cánh cổng vào quá khứ. Trước giờ, các sử gia vẫn chủ yếu hướng tới thời tiết mùa đông nước Nga, ý chí của người Nga, sự thiếu chuẩn bị của người Pháp… Nhưng rõ ràng là vị hoàng đế vĩ đại Napoleon không chỉ bị đánh gục bởi các bộ óc thiên tài của người Nga mà còn bởi chấy rận (các vật chủ truyền bệnh).

Xét rộng ra, “Cái chết đen” đã tham gia vào việc thay đổi nhiều trang sử của nhân loại.

Dịch bệnh này đã làm thay đổi con người sinh học. Nghiên cứu của Sharon DeWitte (University of South Carolina) khảo sát phụ nữ London trong hai giai đoạn: năm 1000–1200 và 1350–1540 và gợi ý rằng “Cái chết đen” gây ra tác động làm giảm chiều cao của phụ nữ.
Thay đổi thể chất và tinh thần xã hội
Dịch hạch không chỉ thay đổi thể chất mà còn tinh thần của xã hội. Trong cơn hoảng loạn tuyệt vọng trước cái chết, những người Thiên Chúa giáo cuồng tín đã tập hợp lại thành các Flagellants. Từ này trong gốc Latin có nghĩa là roi da, ám chỉ việc họ tự nguyện hành hạ cơ thể mình để cứu chuộc tội lỗi hòng xin Chúa trời giúp thoát khỏi dịch bệnh. Tập hợp thành hàng vạn người, họ kéo qua các lãnh địa và làng mạc châu Âu, đặc biệt là trên lãnh thổ các vùng đất ngày nay là Đức, Pháp, Ý. Thực tế việc tập trung đông người và di chuyển liên tục đã làm tăng nguy cơ lây bệnh của những người này, trong khi các vết thương hở trên cơ thể tạo ra cơ hội cho bệnh tật xâm nhập.

Một hệ quả nghiêm trọng hơn là việc họ reo rắc thù nghịch tôn giáo và tộc người đằng sau các cuộc hành trình này. Người Do Thái được cho là nguyên nhân của dịch bệnh. Dù cũng bị ảnh hưởng của dịch, nhưng việc giữ vệ sinh và lối sống tương đối phân tán của người Do Thái làm cho họ ít bị ảnh hưởng. Người Thiên Chúa giáo cáo buộc người Do Thái đã đầu độc các nguồn nước để hủy diệt các xã hội châu Âu và việc lan truyền các tin đồn này tạo ra nhiều cuộc phá hủy và tàn sát đối với cộng đồng Do Thái. Nhiều nhóm trong số này tại các thành phố như Strasbourg, Mainz, Cologne, Munich… đã bị giết hại một cách thảm khốc.

Tâm lí bài người Do Thái có lẽ đã dần được hình thành từ những tin đồn, nỗi ám ảnh và sự hoảng loạn như thế. Rome không được xây trong một ngày, và lịch sử lâu dài này đã gây ra hậu khủng khiếp với các lí thuyết tộc người, chủng tộc hiện đại của chủ nghĩa phát xít Đức thế kỷ XX.
Tất cả các khía cạnh chính trị, xã hội của châu Âu đều bị tác động bởi trận dịch hạch giữa thế kỷ XIV.

Cấu trúc chính trị xã hội là một ví dụ. Ở London vào năm 1357, 1/3 tài sản của thành phố bỏ hoang vì không có đủ dân số. Lương bổng ở các thành phố bắt đầu gia tăng sau trận dịch. Đất đai bỏ hoang cũng thúc đẩy làn sóng di chuyển của nông dân. Chuyển dịch xã hội vì thế gia tăng theo không gian địa lý và cấu trúc xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà sự năng động xã hội này sẽ thúc đẩy cho một bước tiến mới của lịch sử châu Âu ở giai đoạn sau.
“Cái chết đen” tham gia góp phần làm thay đổi lịch sử châu Âu, lịch sử các đế chế và lịch sử toàn cầu. Người Mông Cổ và các vương quốc của họ bắt đầu mất đi các sự kết nối cần thiết, phân tán, và bị địa phương hóa mạnh hơn. Đúng hai thập kỷ sau trận dịch, một người nông dân-nạn nhân của các nạn đói và dịch bệnh tên Chu Nguyên Chương đã lãnh đạo người Hán giành lại quyền kiểm soát vùng bình nguyên giữa hai con sông Hoàng Hà-Trường Giang và lập ra một đế chế mới có tên Đại Minh.

Khi sức ép của quân Mông Cổ lên châu Âu giảm đi, đó là thời cơ cho một đế chế khác nổi lên giữa lục địa Á-Âu: Ottoman. Dịch hạch rõ ràng đã đã làm thay đổi ngôi thứ của các đế chế. Việc quân Ottoman kiểm soát các tuyến đường thương mại và việc các thành thị dọc Địa Trung Hải của Italia bị tàn phá bởi dịch bệnh đã gây ra một chuyển dịch lớn về địa chính trị ở châu Âu nhằm chuẩn bị cho thời kỳ tư bản hiện đại. Đó là việc các trung tâm kinh tế sầm uất của Venice, Genoa… sẽ dần dần được thay thế bởi người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, và sau đó là Anh, Pháp…

Những cường quốc này sẽ thúc đẩy thương mại đường biển thay vì con đường tơ lụa trên bộ truyền thống. Điều đó mở ra các cuộc phát kiến địa lý, tìm ra châu lục mới, thương mại hàng hải toàn cầu, chế độ nô lệ, chủ nghĩa thực dân….

Một chú giải nhỏ cuối cùng của câu chuyện quá khứ đau thương này xin được dành cho nàng công chúa của nước Anh: Joan, cô con gái được yêu chiều của vua Edward III (1312–1377). Vị vua đang can dự vào một trong các cuộc chiến tranh, dàn xếp chính trị và hôn nhân quan trọng nhất của Tây Âu có tên gọi: Chiến tranh Trăm năm (1337 – 1453). Để bảo đảm cho thắng lợi của mình trước người Pháp và mở rộng các vùng đất đang kiểm soát trên lục địa, Edward III quyết định gả con gái cho hoàng tử kế ngôi Peter của vương triều Castile (Tây Ban Nha). Cuộc hôn nhân chắc chắn sẽ tạo ra một bước ngoặt mới của cuộc chiến mà hệ quả của nó là việc vẽ lại bản đồ châu Âu.

Sau ba năm đính ước, mùa hè năm 1348, Joan được hộ tống từ Anh tới Tây Ban Nha bằng một hạm tàu vũ trang nghiêm ngặt gồm bốn chiếc. Một trong số đó được dành riêng cho xiêm y và đồ trang sức của nàng công chúa. Khi hạm thuyền tới Bordeaux, bệnh dịch đã tràn tới thành phố này, tuy nhiên người Anh dường như chưa nhận thức được tính chất nghiêm trọng của nó. Rất nhanh chóng, những người tùy tùng bỏ mạng, và tới lượt nàng công chúa 15 tuổi, qua đời ngày 1/7/1348.

Joan đã lỡ hẹn một cuộc hôn nhân, còn nước Anh lỡ hẹn với một đồng minh. Lịch sử không có nếu. Còn những gì diễn ra sau sự lỡ hẹn này là kết cục cuối cùng nước Anh thất bại trong cuộc chiến Trăm năm, nước Pháp tập quyền bắt đầu hưng thịnh, và lịch sử châu Âu sang trang mới.
Sẽ là cường điệu quá mức khi nói rằng chuột đen hay những con bọ chét đã vẽ lại bản đồ châu Âu, đánh tráo trật tự đế chế hay xác lập quyền lực toàn cầu, nhưng rõ ràng chúng đã tham gia vào các thời khắc quan trọng như thế của lịch sử con người. Và sẽ còn tiếp tục can dự trong tương lai.

Để kết lại, nếu có bài học gì từ quá khứ các trận dịch và số phận đau thương của con người thì đó chính là khả năng kiểm soát dịch bệnh và ổn định tình hình của người quản trị xã hội. Các tin đồn và hệ quả bi thảm của chúng là khía cạnh khác cần phải được xem xét nghiêm túc từ góc độ chính sách. Lịch sử cho thấy bản thân dịch bệnh đã là thảm họa, tuy nhiên các tin tồn và phản ứng thái quá có thể tạo ra sự hỗn loạn và chết chóc ở tầm mức lớn hơn nhiều, bao gồm có chiến tranh, bạo lực xã hội, xung đột tộc người, tôn giáo….

Từ việc người Do Thái bị săn lùng giữa những “Cái chết đen” cho tới giá khẩu trang tăng gấp 10 lần, câu chuyện của dịch bệnh vượt xa khỏi các bệnh viện. Đó là phép thử nghiệt ngã không chỉ đối với tính dẻo dai của tổ chức xã hội, tiềm lực của tích lũy xã hội mà còn là khả năng phản ứng của thể chế chính trị và nhà nước nhằm đối phó trong thời gian ngắn với sự sống còn của giống loài.
(Sưu tầm)