RSS

Category Archives: Tác giả tác phẩm

Chân dung 100 nhà văn (Xuân Sách)

Chân dung 100 nhà văn (Xuân Sách)


(Thắp nén hương nhân ngày giỗ lần thứ 4 của Nhà thơ Xuân Sách (2.6.2008 – 2.6.2012), 80 năm ngày sinh (4.7.1932 – 4.7.2012)

Chân dung Nhà văn (CDNV) của Nhà thơ Xuân Sách ra đời những năm 60 của thế kỉ trước, vẻn vẹn 100 bài thơ, mỗi bài dài từ 4 – 6 đến 8 câu. Mỗi bài thơ vẽ chân dung một Văn – Nghệ – Sĩ của dòng văn chương Việt Nam đương đại – từ 1924 đến 1992.
Các chân dung không thể hiện hình hài quan sát từ bên ngoài – như mọi bức vẽ bằng cọ, ảnh chụp của Họa sĩ, nghệ sĩ Nhiếp ảnh. Xuân Sách ‘’vẽ’’ CDNV bằng lời thơ, ‘’bắt’’ người thưởng thức phải’ “Giải mã’’, suy nghĩ… tìm… liên tưởng… những từ ngữ trong câu thơ, đối chiếu với các tác phẩm của tác gỉa đã xuất bản, rồi từ đó suy ra: Bài Thơ ‘’vẽ’’ ai? Đây là chân dung văn nghệ sĩ nào?
Những đối tượng được Xuân Sách ‘’vẽ’’ đều là những tác gỉa có danh, nổi tiếng, có tác phẩm hiện diện trên văn đàn.Việt Nam trong vòng trên 60 năm (tính từ khi Tản Đà xuất hiện 1924 tới 1992 – CDNV được in ấn). Nếu không có danh, không có tác phẩm gía trị, người đọc sẽ không thể nhận diện được tác gỉa’’bức vẽ’’.
CDNV khắc họa hình hài người nghệ sĩ thật đậm nét, sắc sảo, có hồn. Cũng đồng thời, qua đó nhắc lại, gợi mở cho người đọc, người xem những khía cạnh nổi trội về tư cách của đối tượng, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm rồi suy gẫm về những điều ẩn chứa bên trong cuộc đời của từng tác giả (bức vẽ), gây hứng thú cho người đọc, kích thích sự tìm tòi, tiếp cận tác phẩm của đối tượng.
Thơ Chân Dung của Xuân Sách vừa là Thơ, vừa là Họa. Trong Thơ có Họa, trong bức họa tràn đầy chất thơ. Đọc thơ ông, người đọc phải suy nghĩ, tìm hiểu rồi khi tìm ra… trào dâng, rung lên cảm xúc… Trong trí tưởng người đọc hiện ra chân dung của người được vẽ thật sống động trên nền những bối cảnh của bức tranh cuộc đời họ…
Tác phẩm của ông được khá nhiều người dựa vào rồi thể hiện CDNV theo cách của họ, đưa ra những mô típ mới để tạo ra một sân chơi thi phú đầy hứng khởi… Tuy nhiên, tác phẩm của Xuân Sách vẫn giữ nguyên giá trị nguyên thủy: Thâm sâu, trí tuệ, nghệ thuật!

Sưu tầm.

CHÂN DUNG 100 NHÀ VĂN QUA CÁI NHÌN CỦA NHÀ THƠ XUÂN SÁCH

1. Hồ Phương
Trên biển lớn mênh mông sóng nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.

2. Nguyễn Đình Thi
Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng chờ.

3. Tô Hoài
Dế mèn lưu lạc mười năm
Để O Chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.

4. Nguyên Hồng
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đến động rừng Yên thế
Con hổ già uống rượu giả vờ say

5. Nguyễn Công Hoan
Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
Bới tung đống rác nên trời phạt
Trời phạt chửa xong bác đã cười.

6. Nguyễn Tuân
Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại trót lỡ ưu phiền.

7. Huy Cận
Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị gày quá tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Không nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu!

8. Xuân Diệu
Hai đợt sóng dâng một khối hồng
Không làm trôi được chút phấn thông
Chao ơi ngói mới nhà không mới
Riêng còn chẳng có, có gì chung.

9. Tế Hanh
Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu
Tình còn dang dở tận Hàng Châu
Khúc ca mới hát sao buồn thế
Hai nửa yêu thương một nửa sầu.

10. Chế Lan Viên
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Ta nghĩ tới vàng son từ thuở ấy
Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi
sắc phù sa
Thay đổi cả cơn mơ,
ai dám bảo con tầu không mộng tưởng
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tầu, ta cũng uống

Mặt anh em trong suối cạn Hội nhà văn

11. Nguyễn Thi
Trăng sáng soi riêng một mặt người
Chia ly đôi bạn cách phương trời
Ước mơ của đất anh về đất
Im lặng mà không cứu nổi đời.

12. Kim Lân
Nên danh nên giá ở làng
Chết về ông lão bên hàng xóm kia
Làm thân con chó xá gì
Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn.

13. Tú Mỡ
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để mua cười
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.

14. Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn)
Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
Ông đồ phấn, ông đồ vôi
Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng.

15. Hoài Thanh
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan

16. Vũ Tú Nam
Vốn cùng nhân dân tiến lên
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào
Con về nấp bóng ca dao
Giật mình nghe một tiếng chào: Văn Ngan

17. Hữu Mai
Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết
Trong cặp còn hồ sơ điệp viên
Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết
Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên.

18. Đỗ Chu
Đám cháy ở sau lưng
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu
Dưới vòm trời quen thuộc
Đốt bao nhiêu cỏ mật
Không bay mùi thơm tho
Càng hun càng đỏ mắt
Quay về thung lũng cò

19. Xuân Quỳnh
Mải hái hoa dọc chiến hào
Bỏ quên chồi biếc lúc nào không hay
Thói quen cũng lạ lùng thay
Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn

20. Phạm Tiến Duật
Trường sơn đông em đi hái măng
Trường sơn tây anh làm thơ cho lính
Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc xe không kính
Thế đấy! giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh!

21. Nguyễn Thành Long
Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà
Lặng lẽ giữa khoảng trong xanh ấy
Để mối đùn lên đến lúc già.

22. Đào Vũ
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường mòn ấy ông đi mãi
Lưu lạc đâu rồi mất cả tên

23. Nguyễn Bính
Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu trên giàn mồng tơi
Trăm hoa thân rã cành rời
Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.

24. Nguyễn Văn Bổng
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U minh.

25. Nguyên Ngọc
Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà nu

26. Vũ Thị Thường 
Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thay ông lão vịt trời phải chăn

27. Quang Dũng
“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi”
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp người
Áo sờn thay chiếu anh về đất
Mây đầu ô trắng, Ba vì xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

28. Mai Ngữ 
Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật
Biết ông sòng phẳng tự bao giờ
Cái con thò lò quay sáu mặt
Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ

29. Nguyễn Khải
Cha và con và… họ hàng và…
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng Ba ở Tây nguyên đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại dát

30. Hoàng Trung Thông
Đường chúng ta đi trong gió lửa
Còn mơ chi tới những cánh buồm
Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm

31. Chính Hữu
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ
Trăng còn một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ.

32. Thanh Tịnh
Bao năm ngậm ngải tìm trầm
Giã từ quê mẹ xa dòng Hương giang
Bạc đầu mới biết lạc đường
Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được, tơ lòng gió bay.

33. Chu Văn 
Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
Quay về đất mặn kéo cày cho xong.

34. Ngô Tất Tố
Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia quyền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.

35. Nam Cao
Anh còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn sao vẫn đợi chờ tương lai
Thương cho Thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo.

36. Xuân Thủy 
Xoắn mãi dây tình thơ bật ra
Paris thì thích hơn ở nhà
Đông y ắt hẳn hơn tây dược
Xe tải không bằng xe Vonga
Trên đời kim cương là quý nhất
Thứ đến tình thương dân nghèo ta
Em chớ chê anh già lẩm cẩm
Còn hơn thằng trẻ lượn Honđa.

37. Lưu Trọng Lư
Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa xuân
Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương.

38. Nguyễn Khoa Điềm
Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Cất lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a Kai ơi
Ngủ ngon a Kai à…

39. Nguyễn Kiên
Anh Keng cưới vợ tháng mười
Những đứa con lại ra đời tháng năm
Trong làng kháo chuyện rì rầm
Vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đày kho.

40. Anh Thơ
Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
Khắc khoải kêu chi suốt một đời.

41. Xuân Thiều
“Đôi vai” thì gánh lập trường
Đôi tay sờ soạng con đường cuối thôn
Nghe anh kể chuyện đầu nguồn
Về nhà thấy mất cái hồn của em.

42. Nguyễn Thị Như Trang
Nhá nhem khoảng sáng trong rừng
Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua
Xác xơ mầu tím hoa mua
Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.

43. Bùi Đức Ái (Anh Đức)
Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như hòn đất nặn thành đứa con
Biển xa gió dập sóng dồn
Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ.

44. Nguyễn Thế Phương
Đi bước nữa rồi đi bước nữa
Phấn son mưa nắng đã tàn phai
Cái kiếp đào chèo là vậy đó
Đêm tàn bến cũ chẳng còn ai.

45. Vũ Trọng Phụng
Đã qua đi một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy cơm cô
Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.

46. Xuân Thiêm
Thơ ông tang tính tang tình
Cây đa bến nước mái đình vườn dâu
Thân ông mấy lượt lấm đầu
Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.

47. Đào Hồng Cẩm
Bắt đầu từ lão nghị hụt
Cầm dao giết mạng người
Chị Nhàn phải đi bước nữa
Lấy đại đội trưởng của tôi
Cuộc đời mấy phen nổi gió
Phải đem tổ quốc thề bồi
Lần này ông ra ứng cử
Chắc hẳn là trúng nghị viên thôi.

48. Nguyễn Quang Sáng
Ông Năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà vượt Trường sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
Ông biến thành thằng nộm hình rơm.

49. Hoàng Văn Bổn
Có những lớp người đi vỡ đất
Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô
Lại gieo hạt bông hường bông cúc
Trên mảnh đất này hoa héo khô.

50. Phù Thăng
Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá vây xong lại chết mòn trong vây.

51. Nguyễn Thị Ngọc Tú
Đất làng vừa một tấc
Bao nhiêu người đến cày
Thóc giống còn mấy hạt
Đợi mùa sau sẽ hay

52. Vũ Cao
Sớm nay nhấp một chén trà
Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi
Những người cùng làng với tôi
Muốn sang đèo trúc muộn rồi đừng sang

53. Phan Tứ (Lê Khâm)
Bên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về làng làm chi
Mẫn và tôi tính chi li
Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh.

54. Nguyễn Huy Tưởng
Anh chẳng còn sống mãi
Với thủ đô luỹ hoa
Để những người ở lại
Bốn năm sau khóc oà.

55. Thu Bồn
Chim Chơ rao cất cánh ngang trời
Tình như chớp trắng cháy liên hồi
Đám mây cánh vạc tan thành nước
Mà đất ba dan vẫn khát hoài.

56. Bùi Hiển
Sinh ra trong gió cát
Đất Nghệ an khô cằn
Bao nhiêu năm “nằm vạ”
Trước cửa Hội Nhà văn.

57. Võ Huy Tâm
Đem than từ vùng mỏ
Về bán tại thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hoá ra thằng ngẩn ngơ.

58. Nông Quốc Chấn
Tưởng anh dọn về làng xưa
Ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà
Sướng cái bụng lắm lắm à
Đêm là đèo gió, ngày là hồ Tây.

59. Thế Lữ
Với tiếng sáo thiên thai dìu dặt
Mở ra dòng Thơ Mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.

60. Nguyễn Minh Châu
Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi đi ra những vùng trời khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời bời
Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?

61. Phạm Huy Thông
Nếu Trương Lương không thổi địch sông Ô
Liệu Hạng Vũ có lên ngôi hoàng đế
Nhưng buồn thay đã đánh mất Ngu Cơ
Đời chẳng còn gì, và thơ cũng thế.

62. Giang Nam
“Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm”
“Có những ngày trốn học bị đòn roi”

Nay tôi yêu quê hương về có ô che nắng
Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui.

63. Bằng Việt
Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt người
Bỗng cơn giông nổi đến
Mây che một khung trời
Đất sau mưa sụt lở
Mầu mỡ trôi đi đâu
Còn trơ chiếc guốc võng
Trăng mài mòn canh thâu.

64. Nguyễn Trọng Oánh
Một chút hương thơm trải bốn mùa
Mười năm lăn lội chốn rừng già
Quay về không chịu ơn mưa móc
Đất trắng mưa rồi đất lại khô.

65. Nguyễn Xuân Sanh
Xưa thơ anh viết không người hiểu
“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
Nay anh chưa viết người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà.

66. Thâm Tâm
“Người đi, ờ nhỉ, người đi thật”
Đi thật nhưng rồi lại trở về
Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu
Mà đắm hồn người trong tái tê.

67. Nguyễn Huy Thiệp
Không có vua thì làm sao có tướng
Nên về hưu vẫn phải chết tại chiến trường
Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc
Để vàng tôi trong lửa chịu đau thương.

68. Phùng Quán
Hồn đã vượt Côn đảo
Thân xác ở trong lao
Bởi nghe lời mẹ dặn
Nên suốt đời lao đao.

69. Tố Hữu
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ

Khi trở về ta lại là ta
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở đây.

70. Dương Thu Hương
Tay em cầm bông bần ly
Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng
Chuyện tình kể trước lúc rạng đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
Thiên đường thì quá mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
Hành trình thơ ấu đã qua
Hỡi người hàng xóm còn ta với mình.

71. Hữu Thỉnh
Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
Bị lạc đường về Hội Nhà văn
Ờ nhỉ bao giờ quay trở lại
Với năm anh em trên một chiếc xe tăng.

72. Trần Bạch Đằng(Hưởng Triều, Hiểu Trường, Ng.Trương Thiên Lý)
Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lý gập ghềnh mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
Vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ

73. Nguyễn Duy
Mẹ và em đang ở đâu
Giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa
Ổ rơm teo tóp ngày mùa
Xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
Bầu trời vuông với một ngôi sao dời
Đánh thức tiềm lực suốt đời
Ai? Chẳng ai đáp lại lời của tôi.

74. Nguyễn Mạnh Tuấn
Anh đã đứng trước biển
Cù lao Chàm kia rồi
Những khoảng cách còn lại
Xa vời lắm anh ơi.

75. Trần Mạnh Hảo
Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
Đi phỏng vấn Chí Phèo
Lão chết từ tám hoánh
Đời mày vẫn gieo neo
Còn cái lão Bá Kiến
Đục bản in thơ mày
Bao giờ mày say rượu?
Bao giờ mày ra tay?

76. Hoàng Cầm
Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông Hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Tìm đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.

77. Lê Lựu
Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng, xa rồi
Phủ Khoái xin tương oai oái
Ở đời gặp may hơn khôn
Nào ai dám ghen dám cãi
Người đã đi Mỹ hai lần
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi

78. Vũ Quần Phương
Anh đứng thành tro… em có biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
Vẫn anh đi trong vầng trăng cũ
Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.

79. Hữu Loan
Ôi màu tím hoa sim
Nhuốm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
còn bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi năm
Tìm mấy nghìn
chiều hoang
biền biệt

80. Lý Văn Sâm
Kòn Trô dấn bước đường chinh chiến
Nửa gánh giang hồ nửa ái ân
Ngàn sau sông Dịch còn tê lạnh
Tráng sĩ có về với bến xuân.

81. Tản Đà
Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc hơi
Giấc mộng con suốt một thời bơ vơ
Ước chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn.

82. Lưu Quang Vũ
Cũng muốn tin ở hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà hát
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm đã chết
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết?

83. Hà Minh Tuân
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?

84. Minh Huệ
Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi

85. Văn Cao
Thiên thai – từ giã về dương thế
Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta
Sân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát quốc ca

86. Ma Văn Kháng
Khi xuôi anh mang theo
Đồng bạc trắng hoa xòe
Với một mối tình sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn
Năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành
Vì giấy gía thú chửa làm xong

87. Vũ Bão
Sắp cưới bỗng có thằng phá đám
Nên ông chửi bố chúng mày lên
Đàu chày đít thớt đâu còn ngán
Không viết văn thì ông viết phim.

88. Hồ Dzếnh
Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
Quê nhà vẫn lẩn khuất trong mây
Lui về ký ức chân trời cũ
Uống chén rượu buồn không dám say.

89. Hoàng Phủ Ngọc Tường
Trăm năm ông phủ… Ngọc Tường ơi
Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông hà tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông phủ… Ngọc Tường ơi!

90. Phạm Thị Hoài
Dẫu chín bỏ làm mười
hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên sứ đất này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.

91. Thanh Thảo
Giặc dã yên rồi
Về xoay khối vuông Ru bích
Đoán vận rủi may
Thưa quý vị, xin mời
Xanh tím trắng đỏ vàng đều rõ hết
Ta cùng vào cuộc chơi.
Không gian bốn năm chiều,
thời gian xin tuỳ thích
Đảo lộn tùng phèo thật gỉa trắng đen
“Tôi như cục xà bông thứ thiệt”
Cứ đổ rượu vào
hình quý vị sẽ hiện lên.

92. Trần Dần
Người người lớp lớp
xông ra trận
Cờ đỏ
mưa sa

suốt dặm dài
Mở đợt phá khẩu
tiến lên
nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng
đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên
Vọng hải đài.

93. Khương Hữu Dựng
Ba lô trên vai từ đêm mười chín
“Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”
Thì cứ khắc đi rồi khắc đến
Sao còn ngồi đấy cụ già Khương?

94. Bùi Minh Quốc
Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ
Lại xung phong vào Nam đánh giặc
Với bà mẹ đào hầm đầu bạc phơ phơ
Hoà bình rồi tiến lên đổi mới
Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao
Dẫu thân thể mang đầy thương tích
Thì cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao

95. Ý Nhi
Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
Sợi dọc thì rối, sợi ngang thì chùng.

96. Yến Lan
Ra đi từ bến My Lăng
Bao năm dấu kín ánh trăng trong lòng
Tuổi già về lại bến sông
Trăng xưa đã lớn, phải chong đèn dầu

97. Phan Thị Thanh Nhàn
Dấu một chùm thơ trong chiếc khăn tay
Em hăm hở đi tìm người trao tặng
Những kẻ phong lưu, những tên du đãng
Mấy ai biết hương thầm của cô gái xóm đê.

98. Trần Đăng Khoa
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
“Biển một bên và em một bên”.

99. Hoàng Lại Giang
Người đàn bà một thời tôi ao ước
Trên vành đai Mỹ những năm xưa
Tình yêu đã lụi tàn cùng ký ức
Nhưng còn đây tội lỗi đến bao giờ?

100. Xuân Sách (Tự hoạ)
Cô giáo làng tôi đã chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa đình Bảng người du kích
Đau đớn Bạch đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công gân cốt mỏi
Lối vào lửa sởn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Ở một cung đường rách tả tơi.

 

Nhà xuất bản Văn học

 

Nhãn:

Thử “đọc vị” Nguyễn Trọng Tạo

Thử “đọc vị” Nguyễn Trọng Tạo
(Trịnh Quốc Dũng)

Xem tại đây:
– Làng Quan họ quê tôi (NS Nguyễn Trọng Tạo)
– Khúc hát sông quê (NS NTT)
– Đôi mắt đò ngang (NS Nguyễn Trọng Tạo)
– Tình ca hạt giống vàng (NS NTT)

_MSC_CLICK_TO_OPEN_IMAGETôi gặp gỡ nhà thơ – nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo lần đầu tiên tại một quán rượu trên đường Bưởi. Cái cảm giác trước khi được gặp gỡ một người nổi tiếng, một nhà thơ lớn với rất nhiều bài thơ mà tôi thuộc nằm lòng từ lâu là sự hồi hộp xen lẫn chút ngại ngùng. Nhưng anh đã xóa tan đi cái cảm giác ban đầu đó của tôi bằng cái bắt tay đầy thiện cảm và chân thành.
Thế là trong suốt cuộc rượu hôm đó, tôi chỉ ngồi rót rượu và nghe anh cùng với nhà thơ Lê Huy Mậu (Vũng Tàu) và nhà văn Nguyễn Đức Thiện (Tây Ninh) đàm đạo về chuyện văn chương, nhân tình thế thái. Tôi chú ý đến cái cách anh châm thuốc lá và nhả khói, điệu đàng và nghệ sỹ lắm. Những vạt khói lơ lửng như những nàng Tiên đùa giỡn người hút cũng như người xung quanh một lúc lâu rồi mới chịu tan biến vào không gian. Người hút thuốc được như vậy cũng là một tay chơi sành sỏi, tôi thầm nghĩ như vậy. Dù không biết hút thuốc và thực sự cũng không thích nó, tôi vẫn “phê” cách hút và châm thuốc của Nguyễn Trọng Tạo. Có nhiều nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng, thuốc lá không chỉ gây hại cho người hút mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe của những người bên cạnh (thực tế đã có những quốc gia cấm công dân nước mình hút thuốc lá ở nơi công cộng) nhưng tôi vẫn thấy những lời cảnh báo kia là vô nghĩa khi người hút thuốc đối diện tôi là nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. 

Tôi đã từng nghĩ rằng một ngày có 24 tiếng, đời người giỏi lắm thì sống được khoảng 70 đến 80 năm (cá biệt thì trên 100 năm), rất ngắn ngủi. Vì thế, con người ta phải cố gắng hết sức để làm việc mới mong đạt được một thành tựu gì đó trước khi giã từ cuộc đời này, hướng tới một lý tưởng “Phải có danh gì với núi sông” của cụ Nguyễn Công Trứ ngày xưa đã từng tâm niệm. Do vậy khi được biết Nguyễn Trọng Tạo ngất ngưởng uống rượu thâm đêm thâm ngày, có những cuộc kéo dài tới 25 tiếng (đến nay chưa ai phá được kỷ lục), mà lại viết được những “Tản mạn thời tôi sống”, “Tin thì tin không tin thì thôi”, “Đồng dao cho người lớn”, “Gửi người không quen”, “Thế giới không còn trăng”, “Làng quan họ quê tôi”, “Khúc hát sông quê”, “Đôi mắt đò ngang”, “Con dế buồn”, “Xa quê nghe tiếng mẹ”,… rồi vẽ bìa, vẽ tranh, làm báo, làm sách, biên tập thơ,…mê đắm bao nhiêu con tim Việt Nam ở trong và ngoài nước thì thực tình tôi không thể tin được. Uống rượu suốt ngày thế thì lấy đâu ra thời gian để làm những việc đó? Tại sao lại như thế nhỉ? Những câu hỏi này đã theo tôi suốt một thời gian, cho đến khi được đọc những bài bút ký của nhà văn hóa Hoàng Phủ Ngọc Tường, một Người Ham Chơi đương thời, hiện đang sống ở Huế. Hãy nghe Hoàng Phủ lý giải về cái sự Ham Chơi này: “Trong mỗi người Việt chúng ta có một Người Làm (homo fabien), một Người Nghĩ (homo sapien) và có thêm một Người Ham Chơi (homo ludus). Người Ham Chơi này Tây rất thèm nhưng không đạt nổi. Ham Chơi ở đây không phải là lười biếng. Ham Chơi là cách sống đạt đạo của con người đã nhìn thấy từ lâu bản chất phù hư của thế giới, hiểu rõ rằng những giá trị vật chất có khả năng đến đâu trong cuộc mưu cầu hạnh phúc cho con người.”.
Thì ra là vậy, câu hỏi đeo đẳng tôi bấy lâu đã có lời giải đáp. Có lẽ trong thời gian ở Huế, Nguyễn Trọng Tạo đã gặp gỡ với Người Ham Chơi Hoàng Phủ Ngọc Tường, rồi anh tạo một sân Chơi, sân Chơi mà ở đó anh tự trải chiếu hoa cho riêng mình, để trở thành một Người Ham Chơi đích thực, và hướng dẫn người khác cũng Ham Chơi giống mình. Tuy vậy, để đạt được cái danh hiệu Người Ham Chơi như anh thì không hề dễ chút nào. Có thể có người sẽ tin hay không tin vào những điều tôi vừa nói, thế nên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi sẽ đi làm một cái việc, có lẽ quá sức đối với tôi, một người không phải là dân văn chương. Đó là thử “đọc vị” Nguyễn Trọng Tạo, để xem anh Ham Chơi đến mức nào.
Đầu tiên là sự Chơi Thơ. Nếu như thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường là thơ của nỗi buồn (có nhà phê bình gọi ông là nhà thơ của nỗi buồn) thì thơ của Nguyễn Trọng Tạo là thơ tài hoa, đúng như nhận xét của nhà thơ Lê Huy Mậu. Tài hoa ở đây là những bài thơ của anh có ý tứ lạ, độc đáo, nhiều khi đi thẳng vào sự vật, hiện tượng cần diễn tả mà vẫn gợi cho người đọc nhiều điều liên tưởng về cuộc sống, về con người bình thường nhưng mang đầy chất triết lý. Anh tiếp cận những vấn đề đó có cảm giác như rất dễ dàng, như là Chơi vậy. Có thể có người đọc thơ anh xong thì nhăn mặt và nói lẩm bẩm một mình: “Cái đó mà hắn cũng viết ra được“. Có gì là khó hiểu đâu, vì những điều anh nói, anh trăn trở trong thơ chính là Sự thật, cái mà nhân loại luôn hướng đến nhưng có lẽ chưa bao giờ được toại nguyện tuyệt đối cả. Vì thế, anh tỏ ra rất ác cảm, khó chịu với “khối người như chiếc bóng…”.
Thật ra, rất khó có thể phân loại thơ của Nguyễn Trọng Tạo thuộc dòng thơ nào trong nền thơ ca Việt Nam, vì ở giai đoạn nào anh cũng có những thành tựu đáng kể. Chẳng hạn như, ở thời kỳ thơ chống Mỹ, anh nổi tiếng với trường ca “Con đường của những vì sao” ca ngợi chiến công của mười cô gái thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc. Đến trước những năm trước Đổi mới, anh gây chấn động thi đàn với bài thơ “Tản mạn thời tôi sống” đăng trên báo Văn nghệ. Bài thơ này đã nêu lên được những thực trạng của thời kỳ bao cấp, bao nhiêu bức xúc, bao nhiêu trăn trở, kìm nén với những câu thơ rất hay, khái quát được cả một thời kỳ:
Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật không dễ dàng chi!
Thơ Nguyễn Trọng Tạo được người đọc nhớ đến nhiều, có lẽ bởi vì thơ anh rất giàu hình ảnh, giàu nhạc tính và cũng mới nữa. Tôi trộm nghĩ, người viết được như thế phải có một tâm hồn rất trẻ, và quan trọng hơn là phải theo kịp được thời đại vốn đầy những biến động, luôn cuồn cuộn như những dòng sông đổ ra biển lớn. Gần đây (2008), anh mới xuất bản tập thơ “Em đàn bà“, gồm 32 bài thơ tình. Hãy tưởng tượng nếu như chưa biết mặt tác giả hoặc giả dụ không có tấm ảnh bìa, khi đọc tập thơ này, tôi chắc quí vị sẽ hình dung ra một chàng trai mới đôi mươi, tràn trề nhựa sống, viết thơ tình cho người mình yêu. Trong tập thơ này, có nhiều bài hay, thơ sex viết bạo liệt, mạnh mẽ nhưng cũng rất thật, rất chân thành của những người đang yêu như: “Đà Lạt và hoa”, “Tập đếm”, “Ru trắng”, “Anh ném em lên trời”, “Em đàn bà”, “Tìm hoa”, “Ta đã yêu nhau từ kiếp trước”,…
Đã nhiều lần, tôi thử nhắm mắt và cố hình dung về một Nguyễn Trọng Tạo trong hành trình thơ ca của anh. Từ một cậu bé chăn trâu cắt cỏ trên bờ sông Bùng (Diễn Châu), bỗng dưng “đọc trộm” thơ của Hàn Mặc Tử rồi mắc “bệnh thi sĩ” và trở thành một chàng lãng tử trong thi ca. Chàng lãng tử này là một người hành hương trong hành trình đi tìm Đạo. Trên chặng đường đi đầy chông gai và vực thẳm đó, người hành hương gặp được những người bạn tri kỷ, những người bạn mà “Túi đầy thơ tặng túi đầy trăng”, “Trái tim bạn giữ cho ta đây/Niềm vui bạn giữ cho ta đây…”. Chàng còn gặp những bông Hoa đẹp trong những vườn thơm cỏ lạ, đúng như tâm sự của chàng “Vẽ tôi thấy Đẹp là mê”. Vì yêu Hoa, yêu cái Đẹp da diết mà chàng rất sợ khi nhìn thấy nó tan biến khỏi cuộc sống này, giống như “Mùa xuân thương ai tươi ròng muôn sắc/Cả một trời hoa sương nhòa nước mắt..” hay “Hoa đào vương kiếp đào hoa/Thắm tươi một thuở phôi pha một ngày”,…
Cũng trên chặng đường này, chàng mới nhận thấy cuộc sống thật trống trải, cô đơn và thời gian đối với một đời người là ngắn ngủi. Đó là nỗi Cô đơn nguyên thủy, thường trực của con người trong hành trình tiến hóa của mình. Vì thế, Nỗi buồn như là một người bạn sẻ chia mà chàng không hề chối bỏ, có khi chàng còn van nài nó “Buồn ơi Buồn có thương tôi/Đừng làm tôi phải mồ côi Nỗi buồn…”. Và vì thời gian với chàng là ngắn ngủi, là “Có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi” nên rất nhiều lần, chàng tỏ ý tiếc nuối thời gian, mong cho thời gian trôi chậm lại để chàng nhanh chóng tìm được Đạo, tìm được cái Đẹp vĩnh hằng. Do vậy mà chàng đã nâng niu, xả thân và bảo vệ hết mình cho cái Đẹp trong hành trình của mình.
Đối với chàng, dù có đi cùng trời cuối bể, dù có Ham Chơi rong ruổi cả đời thì hình ảnh quê hương vẫn ngự trị trong tâm trí. Nương thân ở chốn thị thành nhưng chàng vẫn thèm được nghe một khúc dân ca xứ Nghệ, thèm được ăn một miếng cơm nắm quê nhà, thèm được trở về tắm ở con sông Bùng, thèm được ngủ trong vòng tay người mẹ yêu kính,.. Hình như đó là cái day dứt, cái trăn trở muôn thuở của loài thi sĩ (chữ của Hàn Mặc Tử), những người được Thượng đế trao cho sứ mệnh đi tìm Đạo cho loài người?
Về sự Chơi Nhạc, Nguyễn Trọng Tạo sáng tác không nhiều (so với thơ), tuy vậy anh cũng kịp để lại dấu ấn của mình với nền âm nhạc nước nhà. Theo tôi, ba tác phẩm nổi tiếng nhất của anh là “Làng quan họ quê tôi”, “Khúc hát sông quê” và “Đôi mắt đò ngang”. “Làng quan họ quê tôi” thì đã nổi tiếng từ lâu, nay trở thành “tỉnh ca” của tỉnh Bắc Ninh. “Khúc hát sông quê“, sáng tác năm 2002, thì càng ngày càng nổi tiếng, đến nỗi uống rượu mà không ngân nga vài câu hát xem chừng mất vui, cuộc rượu đó xem chừng hơi nhạt. Tôi đã nhiều lần thử lý giải xem tại sao bài hát này lại có sức hút ghê gớm đến vậy, từ ông Bộ trưởng đến những người dân bình thường nhất đều yêu thích nó, trong khi có rất nhiều bài hát khác viết về dòng sông lại không có được diễm phúc đó.
Chúng ta đều biết văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, vì thế mà dòng sông có một tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống của con người. Có thể nói không ngoa rằng, tất cả những phong tục, tập quán, tín ngưỡng cho đến công việc sản xuất, thói quen sinh hoạt hàng ngày của người dân Việt đều ít nhiều gắn bó với dòng sông. Do đó, dòng sông quê là hồn vía của người Việt. Nó vừa gần gũi, vừa linh thiêng đối với mỗi chúng ta. Chính vì vậy, đây là một trong những đề tài xuyên suốt của văn hóa nghệ thuật Việt Nam, trong đó có âm nhạc. Đã có bao nhiêu nhạc sỹ viết về nó với rất nhiều tâm huyết, nhiều kỳ vọng nhưng đã mấy ai “chạm” được vào cái sâu thẳm của dòng sông quê, tức là cái hồn của nó. Nguyễn Trọng Tạo đã làm được điều này, khi anh đã “bắt” được cái hồn đó trong trường ca “Thời gian khắc khoải” của nhà thơ Lê Huy Mậu. Đúng như tên gọi, cả trường ca này là một sự day dứt, nhớ thương của người lữ thứ khi trở về, đứng trước dòng sông quê mình. Không day dứt, không nhớ thương sao được khi “Quá nửa đời phiêu dạt con lại về úp mặt vào sông quê“, rồi cùng với dòng sông hồi tưởng về những ngày thơ bé “Sông còn nhớ chăng nơi ta ngồi ngóng mẹ/Vời vợi tuổi thơ một xu bánh đa vừng”, sau đó nhớ lại những ngày tháng thanh bình, yên ả và để khắc khoải trước cái vô hạn của dòng sông “Một dòng xanh trong chảy mãi tới vô cùng…” với cái hữu hạn của số kiếp con người. Tôi được biết, khi phổ nhạc bài hát này, Nguyễn Trọng Tạo chỉ mất khoảng 30 phút. Nếu không phải anh đã Làm với tư tưởng Chơi, sao lại sáng tạo được nhạc phẩm này?
Nguyễn Trọng Tạo còn một bài hát rất hay nữa, tuy không nổi tiếng bằng hai bài kia, đó là “Đôi mắt đò ngang“. Bài hát lấy bối cảnh một chuyến đò ngang qua dòng sông Lam. Ta cũng thấy dòng sông quê, nhưng sông quê ở đây chỉ làm nền cho hai nhân vật then chốt: người khách sang sông và cô gái xứ Nghệ. Người khách vì “kết” đôi mắt biếc với nụ cười lúng liếng, lẳng lơ của người đẹp nên đã cất công đi khắp chợ đông, khắp dòng sông Lam chỉ để tìm nàng. Đem lòng yêu người đẹp, người khách đa tình kia đã phải lòng cả đất trời, cả con người vùng sông nước ấy. Đến khi đã say, đã ngấm cái men tình kia rồi, thì chàng ta đâu có xá gì, kể cả đến lúc phải “liều”: “Chợ đông ai sợ đò đầy/Chìm trong đôi mắt ấy/Đò đầy, đò đầy anh cứ sang”. Cái hay, cái chất trữ tình, tự nhiên pha chút ỡm ờ của bài hát này là ở chỗ ấy. Nghe bài hát này nhiều lần, tôi thường hay liên tưởng đến bài thơ viết về “đặc sản Huế” (chữ của Hoàng Phủ Ngọc Tường) của Người Ham Chơi Nguyễn Công Trứ thuở nào.
Thứ ba là sự Chơi Họa. Nguyễn Trọng Tạo vẽ rất nhiều tranh và bìa sách, trong đó có những tác phẩm còn đạt cả giải thưởng nữa. Điều đó không ai phủ nhận. Với anh, Họa cũng là một sự Chơi. Anh làm công việc Vẽ với tâm thế Chơi. Tôi vốn không rành về hội họa, vậy mà khi xem lại các bức ảnh chụp với các văn nghệ sỹ của anh, vẫn thấy ấn tượng nhất với bức ảnh khi anh vẽ chân dung nhà thơ Phan Hồng Khánh trong một cuộc rượu. Một người với hàm râu quai nón đang cười sảng khoái còn người kia thì đang “đè ra” để vẽ những nét chân dung cuối cùng. Thấy chưa, vẽ với kiểu cách như vậy thì mới có tác phẩm hay, mới là thể hiện hết phong cách Chơi, nhưng thử hỏi có mấy ai bắt chước được thế?
Thứ tư là sự Chơi Rượu. Về sự Chơi này, ít ai bì kịp Nguyễn Trọng Tạo. Anh có cách uống thầm thì, chậm rãi, vừa uống vừa nói, vừa cười theo kiểu “Rượu ngon nhắm với nói cười”. Cũng nhờ có rượu mà anh để lại câu thơ tuyệt hay về Huế trong một lần ngất ngưởng với bè bạn: “Sông Hương hóa rượu ta đến uống/Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say”. Uống rượu với anh là một thú vui, một sự Chơi vì anh uống cốt để giao lưu, gặp gỡ bạn bè khắp nơi, để đàm đạo văn chương, thế sự, chia sẻ những buồn vui trong cuộc sống với họ dù rằng cũng có lúc anh phải than “Ngày ba cuộc rượu còn gì là thân”. Nhưng biết làm sao được, vì nếu không có anh thì những cuộc rượu kia chắc kém phần hào hứng lắm. Tôi cũng đoán biết rằng, rượu có một vai trò đặc biệt trong quá trình sáng tạo, đi tìm cảm hứng của anh, vì nếu không có nó thì bạn bè anh sẽ thiếu đi một Thi Tửu và chúng ta sẽ không thấy được một Nguyễn-Trọng-Tạo như ngày hôm nay.
Nguyễn Trọng Tạo có lần nói với tôi: “Thơ anh nhất định những người trí thức sẽ thích”. Đó không phải là một lời nói huyênh hoang, khoác lác của một kẻ hợm mình, mà là sự tự tin đáng trọng của một người nghệ sỹ chân chính, người nghệ sỹ luôn thắp sáng tâm hồn mình và đồng loại bằng một trái tim cao cả – trái tim Đan Kô.
Thi sĩ Nguyễn Bính khi viết về văn nghệ, có viết đại ý như sau: “Làm văn nghệ khó lắm vì có nhiều ý, nhiều chữ quá tuyệt mà người khác đã viết trước mình. Mình chỉ nhại lại thôi”. Khi viết những dòng cảm nhận này, một kẻ hậu sinh với vốn học thức ít ỏi, nông cạn như tôi cũng chỉ “nhại lại” những từ ngữ của những bậc tiền bối để bày tỏ sự kính trọng của mình với một người nghệ sỹ tài hoa – Nguyễn Trọng Tạo. Cầu chúc cho anh có một sức khỏe dồi dào để tiếp tục cuộc hành trình với thơ ca Việt, và cũng để uống rượu với bè bạn, những người tri kỷ của anh. Tôi vẫn tin trong sâu thẳm tâm hồn mình, Nguyễn Trọng Tạo, người mà cả đời chỉ biết “Chia cho em một đời Thơ” ấy vẫn luôn đau đáu một nỗi niềm, một khát vọng đối với thơ Việt. Đó là một nền Thơ đậm đà bản sắc dân tộc, nhưng cũng hướng tới cái mới, cái tiến bộ, phù hợp với xu hướng Thơ của thế giới, vì người nghệ sỹ đó hiểu rằng: Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa…

Hà Nội, 07/12/2008/TQD

Trần Kim Lan xin giới thiệu một số bài thơ của Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo:

1-Đồng dao cho người lớn

có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời
có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
có cả đất trời mà không nhà ở
có vui nho nhỏ có buồn mênh mông
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.

1992/Nguyễn Trọng Tạo

2-Thơ gửi người không quen

 

cho thơ tôi được tìm về
tuổi hai mươi, sáng mùa hè đạn bom
ngồi trêm mâm pháo quay tròn
bị thương, tôi ngỡ chẳng còn về đây…

có ai chợt đến, ghé vai
cõng tôi, bước núi bước mây chập chùng
tiếng bom lay đất, lạ lùng
người cõng tôi, bỗnh hóa vùng chở che

là khi chợt tỉnh cơn mê
nhận ra mái tóc bộn bề ngực tôi
là khi tim đập bồi hồi
nhận ra gương mặt của người… không quen

cho thơ tôi được gọi Em
và tôi xin được đi tìm người yêu
qua bao buổi sớm buổi chiều
qua bao trận đánh rất nhiều nhớ thương
hẳn là tôi đã tơ vương
người không quen… biết hỏi đường về đâu?

cho tôi xây những nhịp cầu
để em chẳng phải sông sâu lụy đò
tôi xây phố rộng, nhà to
để em đến ở, chẳng chờ đợi đâu
tôi về đồng cạn đồng sâu
may ra tát nước chung gầu cùng em…

và bao công việc không tên
tôi say như thể có em đến gần

như là tôi đã một lần
nói yêu em
dọc mùa xuân
hai người…

cho thơ tôi được nói lời
tình – yêu – tôi, gửi tới người – tôi – yêu
bởi tôi tin những sớm chiều:
người không quen… sống rất nhiều cho tôi

 

(Nguyễn Trọng Tạo)

Ba bài thơ in trong tập thơ chung „Anh yêu em“ gồm nhiều tác giả, do nhà Xuất bản Lao động và Trung tâm văn hóa Đông Tây tuyển chọn:

1-Ru trắng
Choàng lên thân thể em mây trắng dệt nghìn năm lụa trời non nõn trắng
Em bồng bềnh thức ngủ phía anh ru
Anh ru biển mơn man bọt sóng xỏa mòn đêm ôm bờ cát
Anh ru cây rải lá chỗ em nằm
Anh ru gió lang thang mềm hơi thở
Yêu vỗ về có theo suốt trăm năm…
Ru cô đơn chìm vào thịt da đêm trắng buốt
Ru đau thương hoang hoải dấu lưng trần
Ru bàn tay biết yêu
Ru bàn chân biết nói
Ru bờ mi rưng lệ bóng tuổi tròn
Ngày tháng mỏi buồn
Đường xa mỏi nhớ
Những trắng đêm mỏi thăng trầm bồi lở
Mỏi mặt người mặt giấy
Mỏi hoa nở hoa tàn
Mỏi cay đắng hân hoan…
Ru căn phòng ảo mờ khung tường trắng
Ru nghĩa trang trắng phớ vết thư xưa
Trước mặt sau lưng chập chờn ảo mộng
Đêm tan vào hoang vắng tiếng ru mưa…

3-6.5.2008/Nguyễn Trọng Tạo

2-Yêu hết mình
(Tặng Em)

Yêu hết mình tâm hồn thành tơ lụa
Ôm thân thể em như kén bọc tằm (*)
Yêu hết mình tâm hồn thành rượu mạnh
Thăng hoa anh
Yêu hết mình tâm hồn thành dây diều vô định
Neo tiếng sáo du dương ngút ngát không gian xanh…
Anh đã thử bay lên trời cao ấy
Mượn phép mầu thu lại tâm hồn em
Anh đã thử rơi về giường chiếu hẹp
Nhốt đam mê trong chảo nóng quay giòn
Và anh thấy tâm hồn em ánh sáng
Mắt đen tròn say đắm mắt em ngon…
Yêu hết mình người cho nhau sự sống
Mọi xích xiềng thành sợi nắng vàng mơ
Nhắm mắt lại thấy trời cao biển rộng
Thấy sống lưng ngân tiếng sáo xa mờ…

4.4.2009/Nguyễn Trọng Tạo
________
(*) Nietzche nói: “Trong một tình yêu đích thực, chính tâm hồn bao bọc lấy thân thể”.

3-Em

Em đã vắt kiệt mình như vắt kiệt mùa đông trong chậu áo quần của ba, mẹ, chồng, con, em vừa giặt giũ
Em đã cười tươi ngày mới chớm yêu và đã khóc âm thầm sau ngày cưới
Em đã chia cho anh nỗi buồn công sở và niềm vui ngày biết mang thai
Em đã hát một bài ca xưa cũ
Giữa bạn bè hồn nhiên trẻ thơ
Anh con thuyền ưa bão tố phong ba
Dòng mơ ước chân trời tít tắp
Có khi vô tâm không nghe tiếng khóc
Tiếng gió trời nức nở sau lưng…
Không còn chiến tranh anh không còn làm lính
Em thời bình Chinh Phụ vẫn chưa thôi
Có gì níu gọi ta trong bão tố cuộc đời
Có gì đẩy xô ta trong bình yên mộng ảo
Những đứa con lớn dần lên lúc vắng cha khi vắng mẹ
Những đứa con ưu buồn trước tuổi thần tiên
Em vẫn một mình đi chợ nấu cơm đến bệnh viện chăm mẹ già thăm thầy cô đưa con đi vãng cảnh
Những bài thơ của anh chất thêm lên vai em gánh nặng
Những chân trời càng đến lại càng xa
Nhắm mắt lại anh thấy em bên cạnh
Thấy con đi học về ríu rít gọi: Ba ơi…

27.9.2005/Nguyễn Trọng Tạo 

 

Nhãn: ,

Bà Đoàn Thị Điểm Và Chinh Phụ Ngâm Khúc

Sơ lược tiểu sử

 Bà Đoàn Thị Điểm, hiệu là Hồng Hà Nữ sĩ, biệt hiệu là Ban Tang, quê quán ở làng Hiến Phạm (còn gọi là Giai Phạm, tên nôm là làng Giữa), huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Châu Giang tỉnh Hải Hưng. Bà chính họ là Đoàn, nhưng vì Bà lấy chồng họ Nguyễn (Ông Nguyễn Kiều), nên có sách chép Bà là Nguyễn Thị Điểm. Đây là một sai lầm đáng tiếc. Bà sanh năm Ất Dậu (1705), thời nhà Lê Trung Hưng, đời vua Lê Hy Tông, Chúa Trịnh là Định Vương Trịnh Căn và Chúa Nguyễn ở phương Nam là Nguyễn Phúc Chu.

Tâm Trạng của Bà Đoàn Thị Điểm khi diễn Nôm Chinh Phụ Ngâm:

Đoàn Thị Điểm khi còn là thiếu nữ, lúc ở nhà của dưỡng phụ Lê Anh Tuấn tại phường Bích Câu, kinh thành Thăng Long, có dịp gặp Đặng Trần Côn. Côn nhỏ hơn Cô Điểm chừng hai tuổi, con nhà quí tộc, quê ở Kẻ Mục Hạ Đình. Đó là một trang thiếu niên anh tuấn tài hoa, năm 15 tuổi đã đậu Hương Cống. Côn rất quí mến Cô Điểm về nhan sắc cũng như về tài văn chương, nên có gởi đến Cô Điểm một bài thơ tỏ ý cầu hôn.

Cô Điểm không trả lời nhưng có nói đùa với các chị em bạn:
– Cái Ông Cống Đặng, miệng còn hôi sữa, làm thơ chưa xong mà lại đi nói chuyện vợ chồng.
Đặng Trần Côn nghe thuật lại thì tức lắm, nên cố gắng miệt mài đèn sách, cố đậu cho được Tiến Sĩ trong kỳ thi Hội.
Đầu niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê Trung Hưng, gặp buổi chiến tranh ly loạn, trai tráng bị bắt đi lính đáng giặc phương xa, gây cảnh biệt ly đau đớn cho nhiều gia đình, Ông Đặng Trần Côn cảm xúc, đem hết sức học bình sanh viết nên tác phẩm Chinh Phụ Ngâm bằng Hán văn theo thể thơ xưa Cổ Nhạc phủ.
Khi viết xong, Đặng Trần Côn đưa tác phẩm nầy cho Ông Ngô Thời Sĩ xem. Ông Sĩ xem xong lấy làm thán phục nói rằng: “Văn chương tới mức nầy thì Lão Ngô tôi chỉ còn biết bái phục mà thôi.”
Ông Đặng Trần Côn sau đó gởi tác phẩm nầy đến cho Bà Đoàn Thị Điểm xem, ngụ ý cho Bà Điểm biết rằng, trước đây Bà xem thường ông là lầm to. Lúc nầy Bà Điểm đã lấy chồng là Ông Nguyễn Kiều, và Ông Kiều đang đi sứ sang Tàu, bị kẹt ở lại bên đó vì giặc giã cắt đứt đường giao thông, nên chưa trở về Việt Nam được. Bà Điểm xem xong tác phẩm Hán văn của Ông Đặng Trần Côn thì rất phục tài văn chương của họ Đặng, lại thấy tâm sự của nàng Chinh phụ trong tác phẩm giống y hệt tâm sự của Bà lúc đó: Chồng đi sứ sang Tàu giống như đi lính thú chinh chiến ngoài biên thùy, Bà ở nhà lòng nhớ nhung lo lắng cho chồng không nguôi, lại còn lo phụng dưỡng mẹ già, nuôi nấng và dạy dỗ đàn con thơ của chồng xem như con ruột.
Tâm hồn của người Nữ sĩ rung động, và cũng muốn đáp lại tấm tình cảm của Đặng Trần Côn khi trước, Bà đem hết sự xúc cảm của tâm hồn, diễn Nôm tác phẩm Chinh Phụ Ngâm Hán văn của Đặng Trần Côn, theo lối thơ trữ tình hoàn toàn Việt Nam là song thất lục bát.

Chinh Phụ Ngâm Khúc

của Ðoàn Thị Ðiểm (1705-1748)
nguyên tác của Ðặng Trần Côn (1715?-1745)

001 Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
002 Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
003 Xanh kia thăm thẳm tầng trên
004 Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
005 Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
006 Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
007 Chín tầng gươm báu trao tay
008 Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
009 Nước thanh bình ba trăm năm cũ
010 Áo nhung trao quan vũ từ đây
011 Sứ trời sớm giục đường mây
012 Phép công là trọng, niềm tây sá nào
013 Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn
014 Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
015 Bóng cờ tiếng trống xa xa
016 Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng
017 Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
018 Xếp bút nghiên theo việc đao cung
019 Thành liền mong tiến bệ rồng
020 Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
021 Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
022 Gieo Thái Sơn như tựa hồng mao
023 Giã nhà đeo bức chiến bào
024 Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu
025 Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
026 Ðường bên cầu cỏ mọc còn non
027 Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
028 Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
029 Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
030 Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
031 Nhủ rồi tay lại trao liền
032 Bước đi một bước lại vin áo chàng
033 Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
034 Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San
035 Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
036 Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
037 Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử
038 Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba
039 Áo chàng đỏ tựa ráng pha
040 Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
041 Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
042 Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
043 Hà Lương chia rẽ đường này
044 Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi
045 Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu
046 Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
047 Quân đưa chàng ruổi lên đường
048 Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
049 Tiếng địch trổi nghe chừng đồng vọng
050 Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
051 Dấu chàng theo lớp mây đưa
052 Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
053 Chàng thì đi cõi xa mưa gió
054 Thiếp lại về buồng cũ gối chăn
055 Ðoái trông theo đã cách ngăn
056 Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh
057 Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại
058 Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
059 Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
060 Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
061 Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
062 Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
063 Ngàn dâu xanh ngắt một màu
064 Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
065 Chàng từ đi vào nơi gió cát
066 Ðêm trăng này nghỉ mát phương nao?
067 Xưa nay chiến địa dường bao
068 Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu
069 Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn
070 Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
071 Ôm yên, gối trống đã chồn
072 Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh
073 Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại
074 Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua
075 Hình khe, thế núi gần xa
076 Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao
077 Sương đầu núi buổi chiều như giội
078 Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
079 Não người áo giáp bấy lâu
080 Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây
081 Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ
082 Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
083 Tưởng chàng giong ruổi mấy niên
084 Chẳn nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan
085 Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ
086 Lại lạnh lùng những chỗ sương phong
087 Lên cao trông thức mây lồng
088 Lòng nào là chẳng động lòng bi thương!
089 Chàng từ sang Ðông Nam khơi nẻo
090 Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
091 Những người chinh chiến bấy lâu
092 Như xem tính mệnh như màu cỏ cây
093 Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước
094 Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
095 Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
096 Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
097 Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
098 Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
099 Chinh phu tử sĩ mấy người
100 Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
101 Dấu binh lửa, nước non như cũ
102 Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
103 Phận trai già cõi chiến trường
104 Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
105 Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ
106 Ba thước gươm, một cỗ nhung yên
107 Xông pha gió bãi trăng ngàn
108 Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành
109 Áng công danh trăm đường rộn rã
110 Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi
111 Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
112 Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
113 Trong cửa này đã đành phận thiếp
114 Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?
115 Những mong cá nước sum vầy
116 Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời
117 Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
118 Chàng há từng học lũ vương tôn
119 Cớ sao cách trở nước non
120 Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu
121 Khách phong lưu đương chừng niên thiếu
122 Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên
123 Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
124 Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành
125 Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
126 Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
127 Nay quyên đã giục, oanh già
128 Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
129 Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió
130 Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông
131 Nay đào đã quyến gió Ðông
132 Phù dung lại đã bên sông bơ sờ
133 Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy
134 Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm?
135 Ngập ngừng, lá rụng cành trâm
136 Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao
137 Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ
138 Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao?
139 Ngập ngừng gió thổi chéo bào
140 Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông
141 Tin thường lại, người không thấy lại
142 Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh
143 Rêu xanh mấy lớp chung quanh
144 Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ
145 Thư thường tới, người không thấy tới
146 Bức rèm thưa lần dãi bóng dương
147 Bóng dương mấy buổi xuyên ngang
148 Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai
149 Thử tính lại diễn khơi ngày ấy
150 Tiền sen này đã nẩy là ba
151 Xót người lần lữa ải xa
152 Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài
153 Tình gia thất nào ai chẳng có
154 Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương
155 Mư già phơ phất mái sương
156 Con thơ măng sữa, vả đương phù trì
157 Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
158 Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm
159 Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
160 Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
161 Nay một thân nuôi già dạy trẻ
162 Nỗi quan hoài mang mể biết bao!
163 Nhớ chàng trải mấy sương sao
164 Xuân từng đổi mới, Ðông nào còn dư
165 Kể năm đã ba tư cách diễn
166 Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang
167 Ước gì gần gũi tấc gang
168 Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay
169 Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá
170 Gương lầu Tần dấu đã soi chung
171 Cậy ai mà gửi tới cùng?
172 Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư
173 Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía
174 Ngọc cài đầu thuở bé vui tươi
175 Cậy ai mà gửi tới nơi
176 Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân?
177 Trải mấy thu, tin đi tin lại
178 Tới xuân này tin hãy vắng không
179 Thấy nhàn, luống tưởng thư phong
180 Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng
181 Gió tây nổi không đường hồng tiện
182 Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa
183 Màn mưa trướng tuyết xông pha
184 Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài
185 Ðề chữ gấm, phong thôi lại mở
186 Gieo bói tiền tin dở còn ngờ
187 Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ
188 Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai
189 Há như ai, hồn say bóng lẫn
190 Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư không
191 Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng
192 Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo
193 Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
194 Bức rèm thưa rủ thác đòi phen
195 Ngoài rèm thước chẳng mách tin
196 Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
197 Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết
198 Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
199 Buồn rầu nói chẳng nên lời
200 Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
201 Gà eo óc gáy sương năm trống
202 Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên
203 Khắc giờ đằng đẵng như niên
204 Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa
205 Hương gượng đốt, hồn đà mê mải
206 Gương gượng soi, lệ lại chứa chan
207 Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
208 Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng
209 Lòng này gửi gió đông có tiện
210 Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
211 Non Yên dù chẳng tới miền
212 Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
213 Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
214 Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
215 Cảnh buồn người thiết tha lòng
216 Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun
217 Sương như búa bổ mòn gốc liễu
218 Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
219 Giọt sương phủ bụi chim gù
220 Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi
221 Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
222 Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
223 Lá màn lay ngọn gió xuyên
224 Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
225 Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
226 Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
227 Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
228 Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau
229 Ðâu xiết kể, muôn sầu nghìn não
230 Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi
231 Biếng cầm kim, biếng đưa thoi
232 Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa
233 Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
234 Sớm lại chiều, dòi dõi nương song
235 Nương song luống ngẩn ngơ lòng
236 Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
237 Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi
238 Xót nỗi chàng, ngoài cõi trùng quan
239 Khác gì ả Chức, chị Hằng
240 Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng
241 Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối
242 Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm
243 Mượn hoa, mượn rượu giải buồn
244 Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi
245 Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng
246 Ôm đàn tranh mấy phím rời tay
247 Xót người hành dịch bấy nay
248 Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi
249 Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt
250 Trống tiều khua, như đốt buồng gan
251 Võ vàng đổi khác dung nhan
252 Khuê ly mới biết tân toan dường này
253 Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ
254 Chua cay này, há có vì ai?
255 Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
256 Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề
257 Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng
258 Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn
259 Duy còn hồn mộng được gần
260 Ðêm đêm thường đến Giang Tân tìm người
261 Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ
262 Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa
263 Sum vầy mấy lúc tình cờ
264 Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân
265 Giận thiếp thân lại không bằng mộng
266 Ðược gần chàng bến Lũng, thành Quan
267 Khi mơ những tiếc khi tàn
268 Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!
269 Duy có một tấm lòng chẳng dứt
270 Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi
271 Lòng theo song chửa thấy người
272 Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe
273 Trông bến Nam, bãi che mặt nước
274 Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh
275 Nhà thôn mấy xóm chông chênh
276 Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm
277 Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách
278 Rườm rà xanh cây ngất núi non
279 Lúa thành thoi thóp bên cồn
280 Nghe thôi địch ngọc véo von bên lầu
281 Non Ðông thấy lá hầu chất đống
282 Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai
283 Khói mù nghi ngút ngàn khơi
284 Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
285 Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc
286 Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu
287 Ngàn thông chen chúc khóm lau
288 Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về
289 Trông bốn bề chân trời mặt đất
290 Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen
291 Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn
292 Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan?
293 Gậy rút đất dễ khôn học chước
294 Khăn gieo cầu nào được thấy tiên
295 Lòng này hóa đá cũng nên
296 E không lệ ngọc mà lên trông lầu
297 Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu
298 Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
299 Chẳng hay muôn dặm ruổi giong
300 Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
301 Lòng chàng ví cũng bằng như thế
302 Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa
303 Hướng dương lòng thiếp như hoa
304 Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
305 Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
306 Hoa để vàng bởi tại bóng dương
307 Hoa vàng hoa rụng quanh tường
308 Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần
309 Chồi lan nọ trước sân đã hái
310 Ngọn tần kia bên bãi đưa hương
311 Sửa xiêm dạo bước tiền đường
312 Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ
313 Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ
314 Ðộ Khuê Triền buổi có buổi không
315 Thức mây đòi lúc nhạt hồng
316 Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi Ðông lại Ðoài
317 Mặt trăng tỏ thường soi bên gối
318 Bừng mắt trông sương gội cành khô
319 Lạnh lùng thay, bấy nhiêu Thu
320 Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi
321 Một năm một nhạt mùi son phấn
322 Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi
323 Xưa sao hình ảnh chẳng rời
324 Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương
325 Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ
326 Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in
327 Gió Xuân ngày một vắng tin
328 Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì
329 Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy
330 Trước gió xuân vàng tía sánh nhau
331 Nọ thì ả Chức chàng Ngâu
332 Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông
333 Thương một kẻ phòng không luống giữ
334 Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau
335 Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
336 Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh
337 Xuân thu để giận quanh ở dạ
338 Hợp ly đành buồn quá khi vui
339 Oán sầu nhiều nỗi tơi bời
340 Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân
341 Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước
342 E đến khi đầu bạc mà thương
343 Mặt hoa nọ gã Phan Lang
344 Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
345 Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở
346 Tiếc quang âm lần lữa gieo qua
347 Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa
348 Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng
349 Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt
350 Lầu hoa kia phảng phất mùi hương
351 Trách trời sao để nhỡ nhàng
352 Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên
353 Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội
354 Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương
355 Chẳng xem chim yến trên rường
356 Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau
357 Kìa loài sâu đôi đầu cùng cánh
358 Nọ loài chim chắp cánh cùng bay
359 Liễu, sen là thức cỏ cây
360 Ðôi hoa cũng dính, đôi dây cũng liền
361 Ấy loài vật tình duyên còn thế
362 Sao kiếp người nỡ để đấy đây?
363 Thiếp xin về kiếp sau này
364 Như chim liền cánh, như cây liền cành
365 Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy
366 Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau
367 Thiếp xin: “Chàng chớ bạc đầu
368 Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung”
369 Xin: “làm bóng theo cùng chàng vậy,
370 “Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên
371 “Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền
372 “Mọi bề trung hiều, thiếp xin vẹn tròn”
373 Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt
374 Sức tý dân dường sắt trơ trơ
375 Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi
376 Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn
377 Mũi đòng vác đòi lần hăm hở
378 Ðã lòng trời gìn giữ người trung
379 Hộ chàng trăm trận nên công
380 Buông tên ải Bắc, treo cung non Ðoài
381 Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải
382 Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh
383 Ðỉnh non kia, đá đề danh
384 Triều thiên vào trước cung đình dâng công
385 Nước Ngân Hán vác đòng rửa sạch
386 Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen
387 Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền
388 Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân
389 Nền huân tướng nên công rạng vẻ
390 Chữ đồng hưu bia thẻ nghìn đông
391 Ơn trên: tử ấm thê phong
392 Phần vinh thiếp cũng đượm chung hương trời
393 Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ
394 Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương
395 Khi về đeo quả ấn vàng
396 Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao
397 Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
398 Xin vì chàng giũ lớp phong sương
399 Vì chàng tay chuốc chén vàng
400 Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng
401 Mở khăn lệ, chàng trông từng tấm
402 Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu
403 Câu vui đổi với câu sầu
404 Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời
405 Sẽ rót vơi lần lần từng chén
406 Sẽ ca dần ren rén từng thiên
407 Liên ngâm đối ẩm đòi phen
408 Cùng chàng lại kết mối duyên đến già
409 Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ
410 Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình
411 Ngâm nga mong gửi chữ tình
412 “Dường này âu hẳn tài lành trượng phu!”.

(Sưu tầm)

 
2 bình luận

Posted by trên 09.09.2011 in Tác giả tác phẩm

 

Nhãn: ,

Bà Huyện Thanh Quan: Tiểu Sử, Tác Phẩm

BÀ HUYỆN THANH QUAN

1- SƠ LƯỢC TIỂU SỬ

Open in new windowBà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh bà là người giỏi về thơ văn thời Minh Mệnh và Tự Đức. Bà người làng Nghi Tàm, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội).
Bà Huyện Thanh Quan là vợ ông Lưu Nghi, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Lưu Nghi đỗ cử nhân năm 1821 (đời Minh Mạng thứ 2), làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Ninh, tỉnh Thái Bình), vì vậy người ta thường gọi bà là “Bà huyện Thanh Quan”.

Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc có nhắc tới chồng bà trong Nam thi hợp tuyển như sau: “Chồng bà là ông Lưu Nguyên Uẩn, sinh năm 1804, đậu tú tài năm 1825, cử nhân năm 1828 và được bổ nhiệm làm tri huyện Thanh Quan. Ông huyện Thanh Quan vì can án phải cách, bổ làm Bát phẩm thơ lại Bộ hình. Sau lại thăng lên chức Viên ngoại lang”.

Dưới thời Tự Đức, bà nhậm chức Cung trung giáo tập để dạy các công chúa, cung phi.

Bà đã để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất nước như đèo Ngang (bài Qua đèo Ngang), thành Thăng Long (bài Thăng Long hoài cổ), chùa Trấn Bắc (bài Chùa Trấn Bắc),… biểu thị lòng yêu mến phong cảnh thiên nhiên và tâm trạng ai hoài trước sự đổi thay của thế sự. Ngoài ra còn một bài thơ “Cảnh Thu” hiện vẫn chưa rõ là của bà hay của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

Bà huyện Thanh Quan rất say mê cái thú văn chương và xem đó là một thú tiêu khiển thanh tao nhất. Trong câu đối dán trong dịp Tết, bà đã hạ bút:
Duyên với văn chương nên dán chữ
Nợ gì trời đất phải trồng nêu
Nói về bà, có nhiều giai thoại rất lý thú

XỬ ÁN:

Nhân một hôm ông huyện đi vắng, có một người đàn bà còn trẻ, tên là Nguyễn Thị Đào đến kiện người chồng phụ bạc, phế bỏ việc gia đình, hắt hủi vợ nhà, và yêu cầu quan trên cho mình được ly dị với chồng. Nhận thấy nội dung lá đơn lời lẽ rất cảm động, thương cho người thiếu phụ chịu lỡ dở cuộc duyên tình phí bỏ cả ngày xanh trong cảnh cô đơn, bà Huyện liền quên cả luật pháp, phê vào lá đơn của Nguyễn Thị Đào bốn câu thơ:
Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo, cắm sào đợi ai
Chữ rằng: Xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút, chẳng mai nữa già
Do việc làm của bà mà ông Huyện bị quan trên quở trách. Nhưng cách đó chẳng lâu, ông lại được thăng chức và thuyên chuyển về Bộ hình làm chức lang trung. Nhờ có tài văn chương lỗi lạc, Bà huyện Thanh Quan được vua Tự Đức vời vào cung và phong chức Cung trung Giáo tập để dạy cho các cung nhân học. Trọng tài học của bà, vua Tự Đức có ban cho bà được đề thơ vào một cái chén cổ, có bức hoạ sơn thuỷ. Bà đã ứng khẩu đọc hai câu:
In như thảo mộc trời Nam lại
Đem cả sơn hà đất Bắc sang
Vua Tự Đức vốn thích văn chương nên thường làm thơ cho bà hoạ lại, bà hoạ rất tài nên được vua rất quý trọng. Về những tác phẩm bằng chữ Nôm của Bà huyện Thanh Quan, hiện nay chỉ còn lại những bài thơ thất ngôn: Thăng Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Đền Trấn Võ, Qua đèo Ngang, Cảnh thu, Nhớ nhà, Cảnh chiều hôm,…

LÀM TRÂU

Có một ông đỗ Hương cống tới xin mổ trâu để giỗ bố. Lúc bấy giờ, triều đình đã ban lệnh hạn chế mổ trâu, để phát triển việc canh nông. Cảm động trước hiếu hạnh của ông này mà chồng thì đi vắng, Bà Huyện Thanh Quan đã cầm bút phê vào đơn câu thơ:
Người ta thì chẳng được đâu
“Ừ ” thì ông Cống làm trâu thì làm.
Biết bà huyện dùng chữ nghĩa để lỡm mình, nhưng vì được việc nên ông cũng vui vẻ ra về.[13]
Ngoài ra, trong sách Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam của Thu Hằng còn có thêm vài cuộc đối đáp, đàm luận thi phú giữa bà với vua Minh Mạng.

Phần quan trọng trong thơ văn của Bà huyện Thanh Quan là phần hoài cổ, tiếc thương quá khứ vàng son của tiền triều. Sinh trưởng vào thời Lê mạt và Nguyễn Sơ, bà đã chứng kiến bao cảnh thay ngôi đổi vị, chiến tranh tang thương. Cái ươn hèn của con cháu Hậu Lê, vua Lê Chiêu Thống toan “rước voi về dày mả tổ”,… Bà huyện Thanh Quan, cũng như thi hào Nguyễn Du, muốn dùng văn thơ để diễn tả “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Vốn là phận nữ nhi, bà không thể viết lên những lời nuối tiếc nhà Lê như là một di thần, nhưng bà chỉ muốn nói lên lòng tha thiết tiếc thương cho một thời rực rỡ xa xưa, bị vùi dập vì loạn ly khói lửa. Trong bài Thăng Long hoài cổ, bà đã nói lên lòng thương tiếc không nguôi những dĩ vãng oai hùng, những thời vàng son thuở trước. Giờ đây, chiến tranh loạn lạc, bao cảnh đổi dời, đổ nát điêu tàn.
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
Vốn là một trang nữ lưu tài sắc, Bà huyện Thanh Quan, cũng như hầu hết các thi nhân kim cổ, có một nguồn tình cảm dạt dào, một tấm lòng tha thiết với gia đình. Trên con đường từ đất Bắc vào kinh đô Huế để nhậm chức Cung trung Giáo tập, qua bao gian nan, một mình phải vượt suối, trèo đèo, bà đã có dịp để lòng mình sống với hiu quạnh cô đơn. Và bài thơ Chiều hôm nhớ nhà đã được viết ra để hồi tưởng lại những ngày sống với gia đình trong ấm ngoài êm. Nếu lòng hoài cổ thiết tha, sự thân mật với gia đình càng nồng nhiệt bao nhiêu, thì trước tạo vật, nữ sĩ cũng thấy lòng giăng trải để rộng đón những cảnh hùng vĩ của núi sông. Sự trầm mặc của Bà huyện Thanh Quan đôi khi đã thể hiện ở bên ngoài. Ta tưởng chừng như bà là một người đa cảm, đa sầu, tâm hồn dễ rung động trước ngoại cảnh. Nhưng thật ra, nỗi buồn của nữ sĩ rất nhẹ nhàng, kín đáo. Có lẽ vì quen nếp sống cổ kính của đạo lý Khổng Mạnh, bà rất dễ dè dặt, không để tình cảm bộc lộ một cách ầm ĩ. Tuy nhiên ta cũng thấy được phần nào nội tâm xao xuyến qua lời thơ. Lời thơ của bà rất nhẹ nhàng, dùng lời văn khuê các, đoan trang. Thơ buồn man mác trong những câu:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
hoặc là:
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn trời
Và những u hoài của một lữ thứ khi hoàng hôn xuống đã được thể hiện linh động nhưng mang vẻ trầm mặc, hắt hiu:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
hoặc là:
Vàng toả non Tây, bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa
Những lời thơ óng chuốt, đượm một vẻ bâng khuâng luyến tiếc, đã nói lên phần nào sự rung cảm chân thành của nữ sĩ trước tạo vật, trước thay đổi của nhân thế. Hầu hết trong thơ của bà, chúng ta có thể tìm thấy những đường nét hao hao giống tám bức cổ hoạ của Trung Hoa: Bình sa lạc nhạn (đàn chim nhạn bay xuống bãi cát), Sơn thị tình lam (cảnh chợ chiều dưới chân núi), Viễn phố quy phàm (thuyền buồm ở phố xa về), Ngư thôn tịch mịch (cảnh xóm thuyền chải buổi chiều), Sơn tự hàn chung (tiếng chuông chùa văng vẳng trên núi), Động Đình thu nguyệt (trăng thu trên hồ Động Đình), Giang biên mộ tuyết (cảnh gần tối tuyết sa ở bên sông), Tiêu Tương dạ vũ (cảnh đêm mưa trên sông Tiêu Tương).

Hai câu thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan nằm trong bài Qua đèo Ngang:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia“

TÁC PHẨM

CẢNH CHIỀU HÔM

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa, khách buớc dồn
Kẻ chốn chương đài nguời lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

CẢNH THU

Thấp thoáng non tiên lác đác mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá Tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ?
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ?…

CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ

Vàng tỏa non tây bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác chim về tổ
Dậm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà
Còi mục gác trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước dường ngao ngán
Mấy kẻ chung tình có thấu là..?

CHÙA TRẤN BẮC

Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Mấy tòa sen rớt mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu

ĐỀN TRẤN VÕ

Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thuơng, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười

NHỚ NHÀ

Vàng tỏa non tây, bóng ác tà
Ðầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác, chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà
Còi mục thét trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước càng ngao ngán
Mấy kẻ tình chung có thấu là

QUA ĐÈO NGANG

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa
Lom khom dưới nuí tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mâý nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Ðến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa thành thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Bà Huyện Thanh Quan
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Những Phút Xao Lòng

Nhân kỉ niệm một năm trang nhà trankimlan.de xin gửi tới các bạn đọc giả những vần thơ về tình yêu. Vì có lẽ chỉ có tình yêu mới tôn vinh và làm cho chính ta Người hơn. Người ta nói “Yêu một người nào đó là nhìn thấy một điều kỳ diệu vô hình”. Vâng – Khi trong bạn nguội lạnh tình yêu cũng có nghĩa là Bạn sống cũng như chết, cuộc đời sẽ vô vĩ và tẻ nhạt vô lường. 

NHỮNG PHÚT XAO LÒNG

Có thể vợ mình xưa cũng có một người yêu
(Người ấy gọi vợ mình là người yêu cũ)
Cũng như mình thôi, mình ngày xưa cũng thế
Yêu một cô, giờ cô ấy đã có chồng.

Có thể vợ mình những phút mềm lòng
Nên giấu kín những suy tư không kể về giấc mộng
Người yêu cũ vợ mình có những điều mà chính mình không có được
Cô ấy không nói ra vì sợ mình buồn
Mình cũng có những phút giây cảm thấy xao lòng
Khi gặp người yêu xưa với những điều vợ mình không có được
Nghĩ về cái đã qua nhiều khi nuối tiếc
Mình cũng chẳng nói ra vì sợ vợ buồn
Sau những lần nghĩ đến đâu đâu mình thương vợ mình hơn
Và cảm thấy như mình có lỗi
Chắc vợ mình hiểu điều mình không nói
Cô ấy cũng thương yêu và chăm chút mình hơn
Mà có trách chi những phút xao lòng
Ai cũng có một thời để yêu và một thời để nhớ
Ai cũng có những phút giây ngoài chồng ngoài vợ

Đừng trách chi những phút xao lòng!

Thuận Hữu

 

Nhãn: ,

Nhà Thơ : Trần Đăng Khoa: Sơ lược tiểu sử- Hoa Xương Rồng Nở – Hạt gạo làng ta – Góc sân và khoảng trời – Đêm Thu.

Tiểu sử

Open in new window
Từ nhỏ ông đã được nhiều người cho là thần đồng thơ văn [1]. Lên 8 tuổi, ông đã có thơ được đăng báo. Năm 1968, khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông Từ góc sân nhà em (tập thơ tiếp theo là góc sân và khoảng trời) được nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Có lẽ tác phẩm nhiều người biết đến nhất của ông là bài thơ “Hạt gạo làng ta”, sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc (1971).

Trần Đăng Khoa nhập ngũ tại Trường Lục quân Việt Nam, làm lính hải quân. Sau đó ông theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế giới mang tên M.Goocky thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang phụ trách Ban văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam. Hiện nay ông giữ chức giám đốc của hệ phát thanh có hình VOVTV của đài.[1]
[sửa] Những tác phẩm đáng chú ý
Trần Đăng Khoa không có nhiều tác phẩm, và danh hiệu “thần đồng thơ trẻ” của nhà thơ thời thơ ấu không hề liên quan hay được nối tiếp đến quãng đời về sau khi nhà thơ vào lính, theo học ở Nga, khi về nước làm biên tập viên, làm báo. Thi hứng một thời, hiển nhiên, không là động lực cho xúc cảm khi tác giả đã cao tuổi. Những tác phẩm lớn nhất của Trần Đăng Khoa còn được mọi người biết đến:
Từ góc sân nhà em, 1968.
Góc sân và khoảng trời, tập thơ, 1968, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên toàn thế giới
Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974.
Bên cửa sổ máy bay, tập thơ, 1986.
Chân dung và đối thoại, tiểu luận phê bình, Hà Nội: Nxb Thanh niên, 1998, tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của tác phẩm này, nhưng hiện đã gộp bản thảo vào phần I để tái bản.
[sửa] Giải thưởng
Ông 3 lần được tặng giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền phong (các năm 1968, 1969, 1971), Giải nhất báo Văn nghệ (1982) và Giải thưởng Nhà nước (năm 2000).

Hoa xương rồng nở

Biết rằng em đã xa xôi
Nhớ em lại nhớ cái thời chăn trâu
Chiều mưa tàu chuối che nhau
Thoắt thôi em đã thành dâu nhà người…

Biết rằng em đã xa xôi
Nhớ em lại nhớ cái thời chăn trâu
Chiều mưa tàu chuối che nhau
Thoắt thôi em đã thành dâu nhà người…
Biết là em quá xa rồi
Cớ chi dạ cứ bồi hồi nôn nao
Cõi riêng nào có người nào
Chiều nay anh lại rẽ rào tìm sang…
Bời bời ngọn gió ngổn ngang
Hoa xương rồng vẫn nở vàng lối xưa
Ngõ tre nghe lá đổi mùa
Bóng em khuya sớm nắng mưa đi về
Mẹ cười khoé mắt đỏ hoe
Anh ngồi nghe gió thổi se lá vườn…
Thương anh mẹ gọi bằng con
Có gì ấm áp, gần hơn mọi ngày
Có gì vời vợi nước mây
Anh thành khách lạ qua đây ghé nhờ
Bến quê còn nỗi hẹn hò
Mình anh trở lại… con đò đã sang…
Nhớ em anh dạo thăm làng
Sương thu bảng lảng đôi hàng cây thưa
Đường xưa thoảng chút hương xưa
Chiều quê ngỡ có em vừa đi qua.
Miên man anh lại về nhà
Giếng thu với mảng trăng ngà có nhau
Tưởng như em mới gội đầu
Gương con treo vội lệch sau cột nhà
Tưởng như em mới bước ra
Nghe đâu sang ngoại biếu bà bát canh
Hoa xương rồng nở xanh xanh…

Hạt gạo làng ta

Hạt gạo làng ta.
Có vị phù sa,
Của sông Kinh Thầy.
Có hương sen thơm,
Trong hồ nước đầy.
Có lời Mẹ hát,
Ngọt ngào hôm nay.

Hạt gạo làng ta.
Có bão tháng bảy,
Có mưa tháng ba.
Hạt mồ hôi sa,
Những trưa tháng sáu.
Nước như ai nấu,
Chết cả cá cờ.
Cua ngoi lên bờ,
Mẹ em xuống cấy.

Hạt gạo làng ta.
Những năm bom Mĩ,
Trút trên mái nhà.
Những năm khẩu súng,
Theo người đi xa.
Những năm băng đạn,
Vàng hơn lúa đồng.
Bát cơm mùa gặt,
Thơm hào giao thông.

Hạt gạo làng ta.
Chở ra tiền tuyến,
Chở về phương xa.
Em vui em hát,
Hạt vàng làng ta.
Em vui em hát,
Hạt vàng làng ta…

1969

Góc sân và khoảng trời

Góc sân nho nhỏ mới xây
Chiều chiều em đứng nơi này em trông
Thấy trời xanh biếc mênh mông
Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy…
1966

Đêm Thu

Thu về lành lạnh trời mây
Bỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ
Ánh trăng vừa thực vừa hư
Vườn sau gió nổi nghe như mưa rào.

1972
Trần Đăng Khoa
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Vũ Đình Liên: Ông Đồ.

ÔNG ĐỒ
Open in new window

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay

Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?

Vũ Đình Liên
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Truyện Kiều (Nguyễn Du) – ( Phấn 6 (cuối): Từ câu: 2645 đến câu 3250 )

Truyện Kiều (Nguyễn Du)
( Phấn 6 (cuối): Từ câu: 2645 đến câu 3250)

Open in new window

2645. Đời người đến thế thì thôi,
Trong cơ âm cực dương hồi khốn hay .
Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
Trời làm chi đến lâu ngày càng thương !
Giác Duyên từ tiết giã màng,

2650. Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du.
Gặp bà Tam Hợp đạo cô,
Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
2655. Sư rằng: Phúc họa đạo trời,
Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng tại ta,
Tu là cõi phúc tình là dây oan.
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
2660. Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
2665. Ma đưa lối quỷ đem đường,
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Hết nạn ấy đến nạn kia,
Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.
Trong vòng giáo dựng gươm trần,
2670. Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi.
Giữa dòng nước dẫy sóng dồi,
Trước hàm rồng cá gieo mồi thuỷ tinh.
Oan kia theo mãi với tình,
Một mình mình biết một mình mình hay.
2675. Làm cho sống đọa thác đầy,
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!
Giác Duyên nghe nói rụng rời:
Một đời nàng nhé thương ôi còn gì!
Sư rằng: Song chẳng hề chi,
2680. Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm,
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
2685. Hại một người cứu muôn người,
Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.
Thửa công đức ấy ai bằng?
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi!
Khi nên trời cũng chiều người,
2690. Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
Tiền đường thả một bè lau rước người.
Trước sau cho vẹn một lời,
Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!
2695. Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
Lân la tìm thú bên sông Tiền đường,
Đánh tranh chụm nóc thảo đường,
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Thuê năm ngư phủ hai người,
2700. Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông.
Một lòng chẳng quảng mấy công,
Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!
Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
2705. Ngư ông kéo lưới vớt người,
Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa!
Trên mui lướt mướt áo là,
Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương.
Giác Duyên nhận thật mặt nàng,
2710. Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
Mơ màng phách quế hồn mai,
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
Rằng: Tôi đã có lòng chờ,
Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
2715. Chị sao phận mỏng phúc dày,
Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!
Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu cứu người là nhân.
Một niềm vì nước vì dân,
2720. Âm công cất một đồng cân đã già!
Đoạn trường sổ rút tên ra,
Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.
Còn nhiều hưởng thụ về lâu,
Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!
2725. Nàng nghe ngơ ngẩn biết sao,
Trạc Tuyền! Nghe tiếng gọi vào bên tai.
Giật mình thoắt tỉnh giấc mai,
Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,
2730. Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.
Thấy nhau mừng rỡ trăm bề,
Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư.
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
2735. Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
Nạn xưa trút sạch lầu lầu,
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
2740. Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương.
Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà.
Vội sang vườn Thúy dò la,
Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa.
2745. Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Xập xè én liệng lầu không,
2750. Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xưa.
Chung quanh lặng ngắt như tờ,
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
2755. Láng giềng có kẻ sang chơi,
Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.
Hỏi ông ông mắc tụng đình,
Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
Hỏi nhà nhà đã dời xa,
2760. Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.
Đều là sa sút khó khăn,
May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.
Điều đâu sét đánh lưng trời,
Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao!
2765. Vội han di trú nơi cao,
Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi.
Nhà tranh vách đất tả tơi,
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa.
Một sân đất cỏ dầm mưa,
2770. Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường!
Đánh liều lên tiếng ngoài tường,
Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra.
Dắt tay vội rước vào nhà,
Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay.
2775. Khóc than kể hết niềm tây:
Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?
Kiều nhi phận mỏng như tờ,
Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
Gặp cơn gia biến lạ dường,
2780. Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.
Dùng dằng khi bước chân ra,
Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần.
Trót lời hẹn với lang quân,
Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.
2785. Gọi là trả chút nghĩa người,
Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên!
Kiếp này duyên đã phụ duyên,
Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.
Mấy lời ký chú đinh ninh,
2790. Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.
Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
Chàng Kim về đó con thì đi đâu?
Ông bà càng nói càng đau,
Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.
2795. Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai!
Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê.
Thấy chàng đau nỗi biệt ly,
2800. Nhẫn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên:
Bây giờ ván đã đóng thuyền,
Đã đành phận bạc khôn đền tình chung!
Quá thương chút nghĩa đèo bòng,
Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?
2805. Dỗ dành khuyên giải trăm chiều,
Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền.
Thề xưa giở đến kim hoàn,
Của xưa lại giở đến đàn với hương.
Sinh càng trông thấy càng thương.
2810. Gan càng tức tối ruột càng xót xa.
Rằng: Tôi trót quá chân ra,
Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.
Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
Những điều vàng đá phải điều nói không!
2815. Chưa chăn gối cũng vợ chồng,
Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
Bao nhiêu của mấy ngày đàng,
Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi!
Nỗi thương nói chẳng hết lời,
2820. Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra.
Vội về sửa chốn vườn hoa,
Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang.
Thần hôn chăm chút lễ thường,
Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa.
2825. Đinh ninh mài lệ chép thơ,
Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe.
Biết bao công mướn của thuê,
Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi.
Người một nơi hỏi một nơi,
2830. Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
Sinh càng thảm thiết khát khao,
Như nung gan sắt như bào lòng son.
Ruột tằm ngày một héo don,
Tuyết sương ngày một hao mòn hình ve.
2835. Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê,
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.
Xuân huyên lo sợ biết bao,
Quá ra khi đến thế nào mà hay!
Vội vàng sắm sửa chọn ngày,
2840. Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng.
Người yểu điệu kẻ văn chương,
Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì,
Tuy rằng vui chữ vu quy,
Vui nào đã cất sầu kia được nào!
2845. Khi ăn ở lúc ra vào,
Càng âu duyên mới càng dào tình xưa .
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng.
Có khi vắng vẻ thư phòng,
2850. Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa .
Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm.
Dường như bên nóc trước thềm,
Tiếng kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng,
2855. Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây .
Những là phiền muộn đêm ngày,
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
Chế khoa gặp hội trường văn .
2860. Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày .
Cửa trời rộng mở đường mây,
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.
Chàng Vương nhớ đến xa gần,
Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền.
2865. Tình xưa ân trả nghĩa đền,
Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần.
Kim từ nhẹ bước thanh vân,
Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương .
ấy ai dặn ngọc thề vàng,
2870. Bây giờ kim mã ngọc đường với ai ?
Ngọn bèo chân sóng lạc loài,
Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly .
Vâng ra ngoại nhậm Lâm truy,
Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn.
2875. Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,
Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao .
Phòng xuân trướng rủ hoa đào,
Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng.
Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
2880. Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi .
Họ Lâm thanh với Lâm truy,
Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm.
Trong cơ thanh khí tương tầm,
ở đây hoặc có giai âm chăng là?
2885. Thăng đường chàng mới hỏi tra,
Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
Sự này đã ngoại mười niên,
Tôi đà biết mặt biết tên rành rành.
Tú bà cùng Mã Giám sinh,
2890. Đi mua người ở Bắc kinh đưa về.
Thúy Kiều tài sắc ai bì,
Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ .
Kiên trinh chẳng phải gan vừa,
Liều mình thế ấy phải lừa thế kia .
2895. Phong trần chịu đã ê chề,
Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang .
Phải tay vợ cả phũ phàng,
Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa .
Rứt mình nàng phải trốn ra,
2900. Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia .
Thoắt buôn về thoắt bán đi,
Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!
Bỗng đâu lại gặp một người,
Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh .
2905. Trong tay mười vạn tinh binh,
Kéo về đóng chật một thành Lâm truy .
Tóc tơ các tích mọi khi,
Oán thì trả oán ân thì trả ân .
Đã nên có nghĩa có nhân,
2910. Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen .
Chưa từng được họ được tên,
Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường.
Nghe lời đô nói rõ ràng,
Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh .
2915. Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
Chồng con đâu tá tính danh là gì?
Thúc rằng: Gặp buổi loạn ly,
Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ .
Đại vương tên Hải họ Từ,
2920. Đánh quen trăm trận sức dư muôn ngườị
Gặp nàng khi ở châu Thai,
Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên .
Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.
2925. Đại quân đồn đóng cõi đông,
Về sau chẳng biết vân mồng làm sao .
Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,
Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ.
Xót thay chiếc lá bơ vơ,
2930. Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong ?
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan!
Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây,
2935. Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi ?
Bình bồng còn chút xa xôi,
Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an !
Rắp mong treo ấn từ quan,
2940. Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha .
Dấn mình trong án can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau .
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,
Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn!
2945. Những là nấn ná đợi tin,
Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dờỉ
Năm mây bỗng thấy chiếu trời,
Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.
Kim thì cải nhậm Nam bình,
2950. Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu dương.
Sắm xanh xe ngựa vội vàng,
Hai nhà cùng thuận một đường phó quan .
Xảy nghe thế giặc đã tan,
Sóng êm Phúc kiến lửa tàn Chiếc giang .
2955. Được tin Kim mới rủ Vương,
Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa .
Hàng Châu đến đó bây giờ,
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
Rằng: Ngày hôm nọ giao binh,
2960. Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền.
Nàng Kiều công cả chẳng đền,
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
Nàng đà gieo ngọc trầm châu,
Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!
2965. Thương ôi! Không hợp mà tan,
Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Ngọn triều non bạc trùng trùng,
2970. Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo.
Tình thâm bể thảm lạ điều,
Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?
Cơ duyên đâu bỗng lạ sao,
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
2975. Trông lên linh vị chữ bài,
Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
Với nàng thân thích gần xa,
Người còn sao bỗng làm ma khóc người?
Nghe tin ngơ ngác rụng rời,
2980. Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra:
Này chồng này mẹ này cha,
Này là em ruột này là em dâu.
Thật tin nghe đã bấy lâu,
Pháp sư dạy thế sự đâu lạ thường!
2985. Sư rằng: Nhân quả với nàng,
Lâm truy buổi trước Tiền đường buổi sau.
Khi nàng gieo ngọc trầm châu,
Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về,
Cùng nhau nương cửa bồ đề,
2990. Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.
Phật tiền ngày bạc lân la,
Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây.
Nghe tin nở mặt nở mày,
Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
2995. Từ phen chiếc lá lìa rừng,
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây.
Rõ ràng hoa rụng hương bay,
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Minh dương đôi ngả chắc rồi,
3000. Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên!
Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên,
Bộ hành một lũ theo liền một khi.
Bẻ lau vạch cỏ tìm đi,
Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần.
3005. Quanh co theo dải giang tân,
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường.
Giác Duyên lên tiếng gọi nàng,
Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra.
Trông xem đủ mặt một nhà:
3010. Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi.
Hai em phương trưởng hòa hai,
Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa!
Tưởng bây giờ là bao giờ,
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!
3015. Giọt châu thánh thót quẹn bào,
Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình!
Huyên già dưới gối gieo mình,
Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi:
Từ con lưu lạc quê người,
3020. Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm!
Tính rằng sông nước cát lầm,
Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!
Ông bà trông mặt cầm tay,
Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra.
3025. Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,
Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.
Nỗi mừng biết lấy chi cân?
Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu!
Hai em hỏi trước han sau,
3030. Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi.
Quây nhau lạy trước Phật đài,
Tái sinh trần tạ lòng người từ bi.
Kiệu hoa giục giã tức thì,
Vương ông dạy rước cùng về một nơi.
3035. Nàng rằng: Chút phận hoa rơi,
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
Tính rằng mặt nước chân mây,
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
Được rày tái thế tương phùng.
3040. Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay!
Đã đem mình bỏ am mây,
Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừạ
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
3045. Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Dở dang nào có hay gì,
Đã tu tu trót quá thì thì thôi!
Trùng sinh ân nặng bể trời,
3050. Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
Ông rằng: Bỉ thử nhất thì,
Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.
Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
3055. Độ sinh nhờ đức cao dày,
Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung.
Nghe lời nàng cũng chiều lòng,
Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra.
Một nhà về đến quan nha,
3060. Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy.
Tàng tàng chén cúc dở say,
Đứng lên Vân mới giãi bày một hai .
Rằng: Trong tác hợp cơ trời .
Hai bên gặp gỡ một lời kết giao .
3065. Gặp cơn bình địa ba đào,
Vậy đem duyên chị buộc vào cho em .
Cũng là phận cải duyên kim,
Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao ?
Những là rày ước mai ao,
3070. Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình !
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi .
Còn duyên may lại còn người,
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa .
3075. Quả mai ba bảy đương vừa,
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.
Dứt lời nàng vội gạt đi:
Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
Một lời tuy có ước xưa,
3080. Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều .
Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi !
Chàng rằng: Nói cũng lạ đời,
Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao ?
3085. Một lời đã trót thâm giao,
Dưới dày có đất trên cao có trời !
Dẫu rằng vật đổi sao dời,
Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh !
Duyên kia có phụ chi tình,
3090. Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai ?
Nàng rằng: Gia thất duyên hài,
Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng.
Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương .
3095. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa .
Thiếp từ ngộ biến đến giờ.
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa .
Bấy chầy gió táp mưa sa .
3100. Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn.
Còn chi là cái hồng nhan,
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào ?
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh !
3105. Đã hay chàng nặng vì tình,
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru !
Từ rày khép cửa phòng thu,
Chẳng tu thì cũng như tu mới là !
Chàng dù nghĩ đến tình xa,
3110. Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.
Nói chi kết tóc xe tơ,
Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời !
Chàng rằng: Khéo nói nên lời,
Mà trong lẽ phải có người có ta !
3115. Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,
Có khi biến có khi thường,
Có quyền nào phải một đường chấp kinh .
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
3120. Bụi nào cho đục được mình ấy vay ?
Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời .
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa .
3125. Có điều chi nữa mà ngờ,
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu !
Nghe chàng nói đã hết điều,
Hai thân thì cũng quyết theo một bài .
Hết lời khôn lẽ chối lời,
3130. Cúi đầu nàng những vắn dài thở than .
Nhà vừa mở tiệc đoàn viên,
Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là.
Cùng nhau giao bái một nhà,
Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi .
3135. Động phòng dìu dặt chén mồi,
Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa .
Những từ sen ngó đào tơ,
Mười lăm năm mới bây giờ là đây !
Tình duyên ấy hợp tan này,
3140. Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao .
Canh khuya bức gấm rủ thao,
Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân .
Tình nhân lại gặp tình nhân,
Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
3145. Nàng rằng: Phận thiếp đã đành,
Có làm chi nữa cái mình bỏ đi !
Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may .
Riêng lòng đã thẹn lắm thay,

3150. Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi !
Những như âu yếm vành ngoài,
Còn toan mở mặt với người cho qua .
Lại như những thói người ta,
Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa .

3155. Khéo là giở nhuốc bày trò,
Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi !
Người yêu ta xấu với người,
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau !
Cửa nhà dù tính về sau,

3160. Thì còn em đó lọ cầu chị đây .
Chữ trinh còn một chút này,
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan !
Còn nhiều ân ái chan chan,
Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi ?

3165. Chàng rằng: Gắn bó một lời,
Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau .
Xót người lưu lạc bấy lâu,
Tưởng thề thốt nặng nên đau đớn nhiều !
Thương nhau sinh tử đã liều,

3170. Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình.
Chừng xuân tơ liễu còn xanh,
Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân .
Gương trong chẳng chút bụi trần,
Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm !

3175. Bấy lâu đáy bể mò kim,
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa ?
Ai ngờ lại họp một nhà,
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm !
Nghe lời sửa áo cài trâm,

3180. Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng:
Thân tàn gạn đục khơi trong,
Là nhờ quân tử khác lòng người ta .
Mấy lời tâm phúc ruột rà,
Tương tri dường ấy mới là tương tri !

3185. Chở che đùm bọc thiếu chi,
Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay !
Thoắt thôi tay lại cầm tay,
Càng yêu vì nết càng say vì tình.
Thêm nến giá nối hương bình,

3190. Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan .
Tình xưa lai láng khôn hàn,
Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa .
Nàng rằng: Vì mấy đường tơ,
Lầm người cho đến bây giờ mới thôi !

3195. Ăn năn thì sự đã rồi !
Nể lòng người cũ vâng lời một phen.
Phím đàn dìu dặt tay tiên,
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa .
Khúc đâu đầm ấm dương hòa,

3200. ấy là hồ điệp hay là Trang sinh .
Khúc đâu êm ái xuân tình,
ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên,
ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông !

3205. Lọt tai nghe suốt năm cung,
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao .
Chàng rằng: Phổ ấy tay nào,
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy ?
Tẻ vui bởi tại lòng này,

3210. Hay là khổ tận đến ngày cam lai ?
Nàng rằng: Ví chút nghề chơi,
Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu !
Một phen tri kỷ cùng nhau,
Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa .

3215. Chuyện trò chưa cạn tóc tơ,
Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông .
Tình riêng chàng lại nói sòng,
Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao .
Cho hay thục nữ chí cao,

3220. Phải người tối mận sớm đào như ai ?
Hai tình vẹn vẽ hòa hai,
Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ .
Khi chén rượu khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên .

3225. Ba sinh đã phỉ mười nguyền,
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
Nhớ lời lập một am mây,
Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên .
Đến nơi đóng cửa cài then,

3230. Rêu trùm kẻ ngạch cỏ len mái nhà,
Sư đà hái thuốc phương xa,
Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu ?
Nặng vì chút nghĩa bấy lâu,
Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai .

3235. Một nhà phúc lộc gồm hai,
Nghàn năm dằng dặc quan giai lần lần.
Thừa gia chẳng hết nàng Vân,
Một cây cù mộc một sân quế hòe .
Phong lưu phú quý ai bì,

3240. Vườn xuân một cửa để bia muôn đời
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

3245. Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,

3250. Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.
(Sưu tầm)

Nguyễn Du

 
2 bình luận

Posted by trên 09.09.2011 in Tác giả tác phẩm

 

Nhãn: ,

Truyện Kiều (Nguyễn Du) – (Phần 5: Từ câu 2045 đến câu: 2640)

Truyện Kiều (Nguyễn Du)
( Phần 5: Từ câu: 2045 đến câu: 2640)

Open in new window

2045. Bản sư rồi cũng đến sau,
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.
Rày vâng diện hiến rành rành,
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra.
Xem qua sư mới dạy qua:

2050. Phải nơi Hằng Thủy là ta hậu tình.
Chỉ e đường sá một mình,
ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày.
Gửi thân được chốn am mây,
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
2055. Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay.
Sớm khuya lá bối phướn mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
Thấy nàng thông tuệ khác thường,
2060. Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
Cửa thuyền vừa tiết cuối xuân,
Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời.
Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người đàn việt lên chơi cửa Già.
2065. Giở đồ chuông khánh xem qua,
Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn nương!
Giác Duyên thực ý lo lường,
Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
2070. Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
Bây giờ sự đã dường này,
Phận hèn dù rủi, dù may, tại người.
Giác Duyên nghe nói rụng rời,
Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong.
2075. Rỉ tai nàng mới giãi lòng:
ở đây cửa Phật là không hẹp gì;
E chăng những sự bất kỳ,
Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
Lánh xa, trước liệu tìm đường,
2080. Ngồi chờ nước đến, nên đường còn quê!
Có nhà họ Bạc bên kia,
Am mây quen lối đi về dầu hương.
Nhắn sang, dặn hết mọi đường,
Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân.
2085. Những mừng được chốn an thân,
Vội vàng nào kịp tính gần tính xa.
Nào ngờ cũng tổ bợm già,
Bạc bà học với Tú bà đồng môn!
Thấy nàng mặt phấn tươi son,
2090. Mừng thầm được mối bán buôn có lời.
Hư không đặt để nên lời,
Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen.
Mụ càng xua đuổi cho liền,
Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần.
2095. Rằng: Nàng muôn dặm một thân,
Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa.
Khéo oan gia, của phá gia,
Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây!
Kíp toan kiếm chốn xe dây,
2100. Không dưng chưa dễ mà bay đường trời!
Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
Nơi xa thì chẳng có người nào xa.
Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai.
2105. Cửa hàng buôn bán châu Thai,
Thực thà có một, đơn sai chẳng hề.
Thế nào nàng cũng phải nghe,
Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai.
Bấy giờ ai lại biết ai,
2110. Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh.
Nàng dù quyết chẳng thuận tình,
Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau.
Nàng càng mặt ủ mày chau,
Càng nghe mụ nói, càng đau như dần.
2115. Nghĩ mình túng đất, sẩy chân,
Thế cùng nàng mới xa gần thở than:
Thiếp như con én lạc đàn,
Phải cung rày đã sợ làn cây cong!
Cùng đường dù tính chữ tòng,
2120. Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
Nữa khi muôn một thế nào,
Bán hùm, buôn sói, chắc vào lưng đâu?
Dù ai lòng có sở cầu,
Tâm mình xin quyết với nhau một lời.
2125. Chứng minh có đất, có Trời,
Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì?
Được lời mụ mới ra đi,
Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
Một nhà dọn dẹp linh đình,
2130. Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang.
Bạc sinh quì xuống vội vàng,
Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công.
Trước sân lòng đã giãi lòng,
Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.
2135. Thành thân mới rước xuống thuyền,
Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai.
Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,
Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày.
Cũng nhà hành viện xưa nay,
2140. Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
Xem người định giá vừa rồi,
Mối hàng một, đã ra mười, thì buông.
Mượn người thuê kiệu rước nường,
Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa!
2145. Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
Đưa nàng vào lạy gia đường,
Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!
Thoắt trông nàng đã biết tình,
2150. Chim lồng khốn lẽ cất mình bay cao.
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà chán cho đời,
Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen!
2155. Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Hồng quân với khách hồng quần,
Đã xoay đến thế, còn vần chửa tha.
Lỡ từ lạc bước bước ra,
2160. Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
Đầu xanh đã tội tình chi?
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
2165. Lần thu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi,
Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
2170. Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
2175. Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cùng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: Tâm phúc tương cờ
2180. Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
Một đời được mấy anh hùng,
Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi!
2185. Nàng rằng: Người dạy quá lời,
Thân này còn dám xem ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng,
Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?
Còn như vào trước ra sau,
2190. Ai cho kén chọn vàng thau tại mình.
Từ rằng: Lời nói hữu tình,
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.
Lại đây xem lại cho gần,
Phỏng tin được một vài phần hay không?
2195. Thưa rằng: Lượng cả bao dong,
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!
Nghe lời vừa ý gật đầu,
2200. Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người!
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
Một lời đã biết tên ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!
2205. Hai bên ý hợp tâm đầu,
Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân,
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.
Buồn riêng sửa chốn thanh nhàn,
2210. Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền nguyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng rong.
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi!
Từ rằng: Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia,
2225. Bằng ngay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì?
Quyết lời rứt áo ra đi,
2230. Cánh bằng tiện gió cất lìa dậm khơi.
Nàng thì chiếc bóng song mai,
Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây.
Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy,
Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
2235. Đoái thương muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa;
Xót thay huyên cỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi.
Chốc là mười mấy năm trời,
2240. Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng!
Duyên em dù nối chỉ hồng,
May ra khi đã tay bồng tay mang.
2245. Tấc lòng cố quốc tha hương,
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
Đêm ngày luống những âm thầm,
2250. Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương,
Ngất trời sát khí mơ màng,
Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.
Người quen kẻ thuộc chung quanh
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
2255. Nàng rằng: Trước đã hẹn lời,
Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa.
Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ
Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa.
Giáp binh kéo đến quanh nhà,
2260. Đồng thanh cùng gửi: nào là phu nhân?
Hai bên mười vị tướng quân,
Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu.
Cung nga, thể nữ nối sau,
Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui.
2265. Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,
Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng.
Dựng cờ, nổi trống lên đàng,
Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau.
Hoả bài tiền lộ ruổi mau,
2270. Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.
Kéo cờ lũy, phát súng thành,
Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài.
Rỡ mình, là vẻ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.
2275. Cười rằng: Cá nước duyên ưa,
Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng,
Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?
Nàng rằng: Chút phận ngây thơ,
2280. Cũng may dây cát được nhờ bóng cây.
Đến bây giờ mới thấy đây,
Mà lòng đã chắc những ngày một hai.
Cùng nhau trông mặt cả cười,
Dan tay về chốn trướng mai tự tình.
2285. Tiệc bày thưởng tướng khao binh
Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân.
Vinh hoa bõ lúc phong trần,
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.
Trong quân có lúc vui vầy,
2290. Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
Khi Vô Tích, khi Lâm Tri,
Nơi thì lừa đảo, nời thì xót thương.
Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong.
2295. Từ Công nghe nói thủy chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao .
Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
2300. Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri,
Mấy người phụ bạc xưa kia,
Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra .
Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên .
2305. Mụ quản gia, vãi Giác Duyên,
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời .
Thệ sư kể hết mọi lời,
Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy !
Đạo trời báo phục chỉn ghê,
2310. Khéo thay ! Một mẻ tóm về đầy nơi,
Quân trung gươm lớn áo dài,
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi .
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân.
2315. Trướng hùm mở giữa trung quân,
Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi .
Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.
Từ rằng: ân, oán hai bên,
2320. Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh
Nàng rằng: Nhờ cậy uy linh,
Hãy xin báo đáp ân tình cho phu .
Báo ân rồi sẽ trả thù.
Từ rằng: Việc ấy phó cho mặc nàng.
2325. Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run.
Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
2330. Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là !
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau !
2335. Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa .
Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm.
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
2340. Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai .
Mụ già, sư trưởng thứ hai,
Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên:
Dắt tay mở mặt cho nhìn:
Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi .
2345. Nhớ khi lỡ bước xẩy vời,
Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân?
Hai người, trông mặt tần ngần,
2350. Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui .
Nàng rằng: Xin hãy dốn ngôi,
Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù !
Kíp truyền chư tướng hiến phù,
Lại đem các tích phạm tù hậu tra .
2355. Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư .
Thoạt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây ?
Đàn bà dễ có mấy tay,
2360. Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều !
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca .
2365. Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo .
Lòng riêng riêng những kính yêu;
2370. Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai .
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?
Khen cho: Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,
2375. Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay .
Tạ lòng lạy trước sân may,
2380. Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào,
Nàng rằng: Lồng lộng trời cao,
Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta ?
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
2385. Tú Bà cùng Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao ?
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình,
Máu rơi thịt nát tan tành,
2390. Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời .
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta !
Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
2395. Ba quân đông mặt pháp trường,
Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi .
Việc nàng báo phục vừa rồi,
Giác Duyên vội vã gởi lời từ qui .
Nàng rằng: Thiên tải nhất thì,
2400. Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
Rồi đây bèo hợp mây tan,
Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu !
Sư rằng: Cũng chẳng bao lâu,
Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
2405. Nhớ ngày hành cước phương xa,
Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri .
Bảo cho hội ngộ chi kỳ,
Năm nay là một nữa thì năm năm .
Mới hay tiền định chẳng lầm,
2410. Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau .
Còn nhiều ân ái với nhau,
Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?
Nàng rằng: Tiền định tiên tri,
Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai .
2415. Họa bao giờ có gặp người,
Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân .
Giác Duyên vâng dặn ân cần,
Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài .
Nàng từ ân oán rạch ròi,
2420. Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
Tạ ân lạy trước Từ công:
Chút thân bồ liễu nào mong có rày !
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi !
2425. Chạm xương chép dạ xiết chi,
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây !
Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
2430. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha !
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân .
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa .
2435. Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
Vội truyền sửa tiệc quân trung,
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
2440. Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài .
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
Đòi phen gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam .
2445. Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những loài giá áo túi cơm sá gì !
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương !
Trước cờ ai dám tranh cường,
2450. Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Có quan tổng đốc trọng thần,
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,
Tiện nghi bát tiểu việc ngoài đổng nhung.
2455. Biết Từ là đấng anh hùng,
Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
Đóng quân làm chước chiêu an,
Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.
Lại riêng một lễ với nàng,
2460. Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân.
Tin vào gởi trước trung quân,
Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.
Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
2465. Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Sao bằng riêng một biên thùy,
2470. Sức này đã dễ làm gì được nhau?
Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
Nàng thời thật dạ tin người,
Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
2475. Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
Công tư vẹn cả hai bề,
2480. Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
Trên vì nước dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
2485. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa.
Nhân khi bàn bạc gần xa,
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào,
2490. Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
Bình thành công đức bấy lâu,
Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao.
Ngẫm từ gây việc binh đao,
Đống xương Vô định đã cao bằng đầu.
2495. Làm chi để tiếng về sau,
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
Sao bằng lộc trọng quyền cao,
Công danh ai dứt lối nào cho qua?
Nghe lời nàng nói mặn mà,
2500. Thế công Từ mới trở ra thế hàng.
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh.
Tin lời thành hạ yêu minh,
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.
2505. Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.
Hồ công quyết kế thừa cơ,
Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công.
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
2510. Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau.
Từ công hờ hững biết đâu,
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.
Hồ công ám hiệu trận tiền,
Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
2515. Đương khi bất ý chẳng ngờ,
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
Tử sinh liều giữa trận tiền,
Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!
Khí thiêng khi đã về thần,
2520. Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
Trơ như đá vững như đồng,
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.
Quan quân truy sát đuổi dài.
ầm ầm sát khí ngất trời ai đang.
2525. Trong hào ngoài lũy tan hoang,
Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi.
Trong vòng tên đá bời bời,
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.
Khóc rằng: Trí dũng có thừa,
2530. Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống thác một ngày với nhau!
Dòng thu như dội cơn sầu,
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
2535. Lạ thay oan khí tương triền!
Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
Quan quân kẻ lại người qua,
Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.
Đem vào đến trước trung quân,
2540. Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han.
Rằng: Nàng chút phận hồng nhan,
Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương!
Đã hay thành toán miếu đường,
Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
2545. Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?
Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng.
Rằng: Từ là đấng anh hùng,
2550. Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi!
Tin tôi nên quá nghe lời,
Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.
Ngỡ là phu quý phụ vinh,
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
2555. Năm năm trời bể ngang tàng,
Đem mình đi bỏ chiến trường như không.
Khéo khuyên kể lấy làm công,
Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
Xét mình công ít tội nhiều,
2560. Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!
Xin cho tiện thổ một doi,
Gọi là đắp điếm cho người tử sinh.
Hồ công nghe nói thương tình,
Truyền cho cảo táng di hình bên sông.
2565. Trong quân mở tiệc hạ công,
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan .
Bắt nàng thị yến dưới màn,
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu .
Một cung gió thảm mưa sầu,
2570. Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay !
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu .
Hỏi rằng: Này khúc ở đâu ?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay !
2575. Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này,
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ .
Cung cầm lựa những ngày xưa,
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây !
Nghe càng đắm ngắm càng say,
2580. Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình !
Dạy rằng: Hương lửa ba sinh,
Dây loan xin nối cầm lành cho ai .
Thưa rằng: Chút phận lạc loài,
Trong mình nghĩ đã có người thác oan .
2585. Còn chi nữa cánh hoa tàn,
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân .
Rộng thương còn mảnh hồng quần,
Hơi tàn được thấy gốc phần là may !
Hạ công chén đã quá say,
2590. Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra .
Nghĩ mình phương diện quốc gia,
Quan trên nhắm xuống người ta trông vào .
Phải tuồng trăng gió hay sao,
Sự này biết tính thế nào được đây ?
2595. Công nha vừa buổi rạng ngày,
Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài .
Lệnh quan ai dám cãi lời,
Ép tình mới gán cho người thổ quan .
Ông tơ thực nhẽ đa đoan !
2600. Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên ?
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao .
Nàng càng ủ liễu phai đào,
Trăm phần nào có phần nào phần tươi ?
2605. Đành thân cát lấp sóng vùi,
Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh !
Chân trời mặt bể lênh đênh,
Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào,
Duyên đâu ai dứt tơ đào,
2610. Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay !
Thân sao thân đến thế này ?
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi !
Đã không biết sống là vui,
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương !
2615. Một mình cay đắng trăm đường,
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi !
Mảnh trăng đã gác non đoài,
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong .
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,
2620. Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền đường.
Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây !
Đạm Tiên nàng nhé có hay !
Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta .
2625. Dưới đèn sẵn bức tiên hoa,
Một thiên tuyệt bút gọi là để sau .
Cửa bồng vội mở rèm châu,
Trời cao sông rộng một màu bao la .
Rằng: Từ công hậu đãi ta,
2630. Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
Giết chồng mà lại lấy chồng,
Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời ?
Thôi thì một thác cho rồi,
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông !
2635. Trông vời con nước mênh mông,
Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang .
Thổ quan theo vớt vội vàng,
Thời đà đắm ngọc chìm hương mất rồi !
Thương thay cũng một kiếp người,
2640. Hại thay mang lấy sắc tài làm chi !
Những là oan khổ lưu ly,
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân !
Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
Làm gương cho khách hồng quần thử soi !

(Còn Tiếp)
(Sưu tầm)

 

Nhãn: ,

Truyện Kiều (Nguyễn Du) – (Phần 4: Từ câu 1445 đến câu 2040.)

Truyện Kiều (Nguyễn Du)

(Phần 4: Từ câu 1445 đến câu 2040)

Open in new window

1445. Nghe lời nói cũng thương lời,
Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi .
Rằng: Như hẳn có thế thì
Trăng hoa song cũng thị phi biết điều .
Sinh rằng: Chút phận bọt bèo,

1450. Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.
Cười rằng: đã thế thì nên !
Mộc già hãy thử một thiên trình nghề.
Nàng vâng cất bút tay đề,
Tiên hoa trình trước án phê xem tường.

1455. Khen rằng: Giá đáng Thịnh đường !
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân !
Thật là tài tử giai nhân,
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?
Thôi đừng rước dữ cưu hờn,
1460. Làm chi lỡ nhịp cho đòn ngang cung.
Đã đưa đến trước cửa công,
Ngoài thì là lý song trong là tình.
Dâu con trong đạo gia đình,
Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.
1465. Kíp truyền sắm sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao .
Bày hàng cổ xúy xôn xao,
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi .
Thương vì hạnh trọng vì tài,
1470. Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba .
Huệ lan sực nức một nhà,
Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa .
Mảng vui rượu sớm cờ trưa,
Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh.
1475. Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,
E tình nàng mới bày tình riêng chung:
Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.
Tin nhà ngày một vắng tin,
1480. Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang.
Nghĩ ra thật cũng nên đường,
Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta?
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
ở vào khuôn phép nói ra mối đường.
1485. E thay những dạ phi thường,
Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
Mà ta suốt một năm ròng,
Thế nào cũng chẳng giấu xong được nàọ
Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
1490. Hoặc là trong có làm sao chăng là?
Xin chàng kíp liệu lại nhà,
Trước người đẹp ý sau ta biết tình.
Đêm ngày giữ mức giấu quanh,
Rày lần mai lữa như hình chưa thông.
1495. Nghe lời khuyên nhủ thong dong,
Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang.
Rạng ra gửi đến xuân đường,
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.
Tiễn đưa một chén quan hà,
1500. Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.
Sông Tần một dải xanh xanh,
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan.
Cầm tay dài ngắn thở than,
Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời.
1505. Nàng rằng: Non nước xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
Dễ lòa yếm thắm trôn kim,
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng!
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
1510. Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.
Dù khi sóng gió bất tình,
Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.
Hơn điều giấu ngược giấu xuôi.
Lại mang những việc tày trời đến sau.
1515. Thương nhau xin nhớ lời nhau,
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
Chén mừng xin đợi ngày này năm sau!
Người lên ngựa kẻ chia bào,
1520. Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
1525. Vầng trăng ai xẻ làm -dôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Kể chi những nỗi dọc đường,
Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà:
Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
1530. Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư.
Duyên đằng thuận nẻo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
1535. Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:
Ví bằng thú thật cùng ta,
1540. Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
Dại chi chẳng giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
Lại còn bưng bít giấu quanh,
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
1545. Tính rằng cách mặt khuất lời,
Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!
Lo gì việc ấy mà lo,
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
1550. Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.
Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
1555. Tuần sau bỗng thấy hai người,
Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
Chồng tao nào phải như ai,
1560. Điều này hẳn miệng những người thị phi!
Vội vàng xuống lệnh ra uy,
Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng.
Trong ngoài kín mít như bưng.
Nào ai còn dám nói năng một lời!
1565. Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
Ra vào một mực nói cười như không.
Đêm ngày lòng những dặn lòng,
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên.
Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
1570. Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
Tẩy trần vui chén thong dong,
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.
1575. Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình đã xưng?
Những là e ấp dùng dằng,
1580. Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
Có khi vui chuyện mua cười,
Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu.
Rằng: Trong ngọc đá vàng thau,
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
1585. Khen cho những chuyện dông dài,
Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
Thiếp dù bụng chẳng hay suy,
Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!
Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
1590. Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
Những là cười phấn cợt son,
Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai.
Thú quê thuần hức bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
1595. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái mấy mùa gió trăng.
Tình riêng chưa dám rỉ răng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
Cách năm mây bạc xa xa,
1600. Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn.
Được lời như cởi tấc son,
Vó câu chẳng ruổi nước non quê người.
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
1605. Roi câu vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen,
1610. Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
Lâm Tri đường bộ tháng chầy,
Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.
1615. Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
Làm cho cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
Trước cho bõ ghét những người,
1620. Sau cho để một trò cười về sau.
Phu nhân khen chước rất mầu,
Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển ưng lại chọn một bầy côn quang.
1625. Dặn dò hết các mọi đường,
Thuận phong một lá vượt sang bến Tề.
Nàng từ chiếc bóng song the,
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
Bóng đâu đã xế ngang đầu,
1630. Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.
Tóc thề đã chấm ngang vai,
Nào lời non nước nào lời sắt son.
Sắn bìm chút phận cỏn con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
1635. Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.
Nén hương đến trước Phật đài,
1640. Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra.
Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
1645. Thuốc mê đâu đã rưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
Sẵn thây vô chủ bên sông,
1650. Đem vào để đó lộn sòng ai hay?
Tôi đòi phách lạc hồn bay,
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
Thúc ông nhà cũng gần quanh,
Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời.
1655. Tớ thầy chạy thẳng đến nơi,
Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
Gió cao ngọn lửa càng cao,
Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu!
Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
1660. Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
Chạy vào chốn cũ phòng hương,
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
Tình ngay ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai!
1665. Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
Di hài nhặt gói về nhà,
Nào là khâm liệm nào là tang trai.
Lễ thường đã đủ một hai,
1670. Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ.
Bước vào chốn cũ lầu thơ,
Tro than một đống nắng mưa bốn tường.
Sang nhà cha tới trung đường,
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
1675. Hỡi ôi nói hết sự duyên,
Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan!
Gieo mình vật vã khóc than:
Con người thế ấy thác oan thế này.
Chắc rằng mai trúc lại vầy,
1680. Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!
Thương càng nghĩ nghĩ càng đau,
Dễ ai lấp thảm quạt sầu cho khuây.
Gần miền nghe có một thầy,
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.
1685. Trên tam đảo dưới cửu tuyền,
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
Sắm sanh lễ vật rước sang,
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,
1690. Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.
Trở về minh bạch nói tường:
Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.
Người này nặng kiếp oan gia,
Còn nhiều nợ lắm sao đà thoát cho!
1695. Mệnh cung đang mắc nạn to,
Một năm nữa mới thăm dò được tin.
Hai bên giáp mặt chiền chiền,
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!
Điều đâu nói lạ dường này,
1700. Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.
1705. Nước trôi hoa rụng đã yên,
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian.
Khuyển ưng đã đắt mưu gian,
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
Buồm cao lèo thẳng cánh suyền,
1710. Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
Dỡ đò lên trước sảnh đường,
Khuyển ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
Vực nàng tạm xuống môn phòng,
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
1715. Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,
Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?
Bàng hoàng giở tỉnh giở say,
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.
A hoàn trên dưới giục mau,
1720. Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
Ngước trông tòa rộng dãy dài,
Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên.
Ban ngày sáp thắp hai bên,
Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà.
1725. Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa.
Bất tình nổi trận mây mưa,
Mắng rằng: Những giống bơ thờ quên thân!
Con này chẳng phải thiện nhân,
1730. Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
Ra tuồng mèo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
Đã đem mình bán cửa tao,
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.
1735. Nào là gia pháp nọ bay!
Hãy cho ba chục biết tay một lần.
A hoàn trên dưới dạ ran,
Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào.
Trúc côn ra sức đập vào,
1740. Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh.
Xót thay đào lý một cành,
Một phen mưa gió tan tành một phen.
Hoa nô truyền dạy đổi tên,
Buồng the dạy ép vào phiên thị tì.
1745. Ra vào theo lũ thanh y,
Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
Quản gia có một mụ nào,
Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
Khi chè chén khi thuốc thang,
1750. Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.
Dạy rằng: May rủi đã đành,
Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
Cũng là oan nghiệp chi đây,
Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.
1755. ở đây tai vách mạch rừng,
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
Con ong cái kiến kêu gì được oan?
Nàng càng giọt ngọc như chan,
1760. Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây:
Phong trần kiếp chịu đã đầy,
Lầm than lại có thứ này bằng hai.
Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.
1765. Đã đành túc trái tiền oan,
Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.
Những là nương náu qua thì,
Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.
Mẹ con trò chuyện lân la,
1770. Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
Cho về bên ấy theo đòi lầu trang.
Lãnh lời nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu.
1775. Sớm khuya khăn mắt lược đầu,
Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
1780. Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
Cửa người đày đọa chút thân,
Sớm ngơ ngẩn bóng đêm năn nỉ lòng.
1785. Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng,
Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.
Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.
Lần lần tháng trọn ngày qua,
1790. Nỗi gần nào biết đường xa thế này.
Lâm Tri từ thuở uyên bay,
Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
Mày ai trăng mới in ngần,
Phần thừa hương cũ bội phần xót xa.
1795. Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
1800. Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
Tiểu thư đón cửa giãi giề,
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
Nhà hương cao cuốn bức là,
Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.
1805. Bước ra một bước một dừng,
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
Phải chăng nắng quáng đèn lòa,
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
Bây giờ tình mới rõ tình,
1810. Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
Chước đâu có chước lạ đời?
Người đâu mà lại có người tinh ma?
Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
1815. Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?
Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,
1820. Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
Sợ uy dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
Sinh đà phách lạc hồn siêu:
Thương ơi chẳng phải nàng Kiều ở đây?
1825. Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!
Sợ quen dám hở ra lời,
Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
1830. Mới về có việc chi mà động dong?
Sinh rằng hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên.
Khen rằng: Hiếu tử đã nên!
Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu.
1835. Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay.
Sinh càng như dại như ngây,
1840. Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.
Ngảnh đi chợt nói chợt cười,
Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra.
Tiểu thư vội thét: Con Hoa!
Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.
1845. Sinh càng nát ruột tan hồn,
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.
Tiểu thư cười nói tỉnh say,
Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
Rằng: Hoa nô đủ mọi tài,
1850. Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.
Nàng đà tán hoán tê mê,
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
1855. Cùng chung một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
Tiểu thư lại thét lấy nàng:
1860. Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi ?
Sao chẳng biết ý tứ gì?
Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi.
Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.
1865. Giọt rồng canh đã điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm.
Lòng riêng khấp khởi mừng thầm:
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay.
Sinh thì gan héo ruột đầy,
1870. Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài:
Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
1875. Chước đâu rẽ thúy chia uyên,
Ai ra đường nấy ai nhìn được ai.
Bây giờ một vực một trời,
Hết điều khinh trọng hết lời thị phi.
Nhẹ như bấc nặng như chì,
1880. Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên?
Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
Một mình âm ỉ đêm chày,
Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh.
1885. Sớm trưa hầu hạ đài doanh,
Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
Lựa lời nàng mới thưa qua:
Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.
Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
1890. Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!
Sinh đà rát ruột như bào,
Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
Những e lại lụy đến nàng,
Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.
1895. Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
Thân cung nàng mới dâng qua một tờ.
Diện tiền trình với Tiểu thư,
Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
Liền tay trao lại Thúc Sinh,
1900. Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương!
Ví chăng có số giàu sang,
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!
1905. Sinh rằng: Thật có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
Tiểu thư rằng: ý trong tờ,
1910. Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không.
Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
Sẵn Quan âm các vườn ta,
Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.
1915. Có cổ thụ, có sơn hồ,
Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh.
Tàng tàng trời mới bình minh,
Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.
Đưa nàng đến trước Phật đường,
1920. Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia.
Áo xanh đổi lấy cà sa,
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
Sớm khuya sắm đủ dầu đèn,
Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.
1925. Nàng từ lánh gót vườn hoa,
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.
Nhân duyên đâu lại còn mong,
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.
Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
1930. Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương.
Cho hay giọt nước cành dương,
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
Nâu sồng từ trở màu thiền,
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu,
1935. Cửa thiền, then nhặt, lưới mau,
Nói lời trước mặt, rời châu vắng người.
Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại gấp mười quan san.
Những là ngậm thở nuốt than,
1940. Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà.
Thừa cơ, sinh mới lẻn ra,
Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.
Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng,
Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh:
1945. Đã cam chịu bạc với tình,
Chúa xuân để tội một mình cho hoa!
Thấp cơ thua trí đàn bà,
Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
Vì ta cho lụy đến người,
1950. Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!
Quản chi lên thác xuống ghềnh,
Cũng toan sống thác với tình cho xong.
Tông đường chút chửa cam lòng,
Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.
1955. Thẹn mình đá nát vàng phai,
Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
Nàng rằng: Chiếc bách sóng đào,
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!
Chút thân quằn quại vũng lầy,
1960. Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
Cũng liều một giọt mưa rào,
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!
Xót vì cầm đã bén dây,
Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.
1965. Liệu bài mở cửa cho ra,
ấy là tình nặng ấy là ân sâu!
Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu,
Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường.
Nữa khi giông tố phũ phàng,
1970. Thiệt riêng đó cũng lại càng cực đây.
Liệu mà xa chạy cao bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi!
Bâu giờ kẻ ngược người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước non?
1975. Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
Con tằm đến thác cũng còn vướng tơ!
Cùng nhau kể lể sau xưa,
Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.
Mặt trông tay chẳng nỡ rời,
1980. Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.
Nhận ngừng, nuốt tủi, lảng ra,
Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.
Cười cười, nói nói ngọt ngào,
Hỏi: Chàng mới ở chốn nào lại chơi?
1985. Dối quanh Sinh mới liệu lời:
Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh.
Khen rằng: Bút pháp đã tinh,
So vào với thiếp Lan đình nào thua!
Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
1990. Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài!
Thiền trà cạn chén hồng mai,
Thong dong nối gót thư trai cùng về.
Nàng càng e lệ ủ ê,
Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau.
1995. Hoa rằng: Bà đã đến lâu,
Rón chân đứng nép độ đâu nữa giờ.
Rành rành kẽ tóc chân tơ,
Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương,
2000. Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
Ngăn tôi đứng lại một bên,
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
2005. ấy mới gan ấy mới tài,
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
Người đâu sâu sắc nước đời,
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
Thực tang bắt được dường này,
2010. Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
Thế mà im chẳng đãi đằng,
Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng!
Giận dầu ra dạ thế thường,
Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu!
2015. Thân ta ta phải lo âu,
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!
Ví chăng chắp cánh cao bay,
Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!
Phận bèo bao quản nước sa,
2020. Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
Chỉn e quê khách một mình,
Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.
2025. Bên mình giắt để hộ thân,
Lần nghe canh đã một phần trống ba.
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
Mịt mù dặm cát đồi cây,
2030. Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.
Canh khuya thân gái dặm trường,
Phần e đường xá, phần thương dãi dầu!
Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
2035. Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài.
Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong.
Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
2040. Giác duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh,
Qui sư, qui Phật, tu hành bấy lâu

(Sưu tầm)
(Còn tiếp)

 

Nhãn: ,