TTO – Chỉ riêng trong Đại Nam thực lục thấy chép gần 70 trận dịch lớn nhỏ trong thời gian 75 năm (từ năm 1820 đến 1895, trung bình hơn 1 năm xảy ra 1 trận).
Những nhân viên kiểm tra trên đường phố Hong Kong trong đợt dịch hạch những năm 1890. Dịch hạch toàn cầu lần thứ ba bắt đầu năm 1855 ở Vân Nam, Trung Quốc, được cho là đã khiến hơn 12 triệu người thiệt mạng – Ảnh: CNN
Sử nước ta, do giới hạn về kiến thức khoa học cộng với quan niệm dịch bệnh do trời, nên hạn chế ở phần miêu thuật tình trạng cá nhân người bệnh cũng như những diễn biến dịch bệnh trong cộng đồng. Nhưng ở góc độ khác, công tác hành chánh khá tiến bộ qua việc thống kê tử vong rất sát sao, việc chẩn cấp ủy lạo trong những trận dịch, cho quân dân nghỉ ngơi hoặc miễn thuế sau dịch… có thể cho người thời nay phần nào thấy được sự quý trọng sinh mạng dân đen.
Dịch bệnh được ghi nhận trong lịch sử Việt Nam rất sơ lược, suốt trong Đại Việt sử ký toàn thư (từ khởi thủy đến năm 1789) chỉ đề cập 9 lần xảy ra dịch bệnh, lần đầu thấy chép vào năm 1100 (Lý Nhân Tông, năm Canh Thìn).
Cái chết của một thi hào
Trong số 9 lần ấy, với những ghi nhận tối giản của sử quan, người sau chỉ có thể biết được có 5 trận dịch với phạm vi lan rộng toàn quốc (toàn miền Bắc), 4 trận thuộc phạm vi địa phương như Lạng Sơn, Quốc Oai, Tam Đái, Sơn Tây, Nghệ An. Trận dịch trầm trọng nhất được biết là tại các huyện thuộc Sơn Tây hồi tháng 10-1757, dân chết do bệnh dịch và đói lên đến 8, 9 phần.
Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn ghi chép có khá hơn những sách sử trước đó, không gian địa lý của thời này cũng tương ứng với nước ta ngày nay, nên những ghi nhận này có thể phản ánh bao quát tình hình dịch bệnh toàn quốc trong thế kỷ 19. Có thể còn thiếu sót do chưa rà soát kỹ nhiều nguồn sử liệu, trước mắt chỉ riêng trong Đại Nam thực lục thấy chép gần 70 trận dịch lớn nhỏ trong thời gian 75 năm (từ năm 1820 đến 1895, trung bình hơn 1 năm xảy ra 1 trận).
Tần suất kể trên khá dày nếu so với tình hình dịch bệnh ở Trung Quốc, theo thống kê của Trương Đại Khánh (Trung Quốc cận đại tật bệnh xã hội sử, NXB Giáo Dục Sơn Đông, 2006), dịch bệnh thời nhà Thanh (1644-1911) ghi nhận trong Thanh sử cảo là 98 trận lớn với cấp độ nguy hại nghiêm trọng (trong 267 năm, trung bình hai năm rưỡi 1 trận).
Tuy ghi chép vắn tắt nhưng Đại Nam thực lục đã cho biết cụ thể nhiều số liệu quan trọng, đó là những báo cáo tổng kết sau dịch từ các địa phương gửi về, hoặc sự tổng hợp báo cáo đối với những trận dịch phạm vi toàn quốc. Ba trận đại dịch đáng lưu ý là trận dịch tả năm 1820, trận dịch (chưa rõ tên) năm 1849 và trận dịch đậu mùa năm 1888.
Năm 1820 (Minh Mạng năm đầu), tháng 6 dịch khởi phát ở các trấn Hà Tiên, Vĩnh Thanh, Định Tường (ứng với khu vực Tây Nam Bộ) rồi lan ra toàn quốc, đến tháng 12 mới ngưng, quân và dân đều mắc, số tử vong thống kê được là 206.835 người (dân số lúc này khoảng 7 triệu), triều đình phát chẩn đến 73 vạn quan tiền. Tuy không chép rõ tên dịch bệnh nhưng qua câu “Vua lấy bạch đậu khấu trong kho và phương thuốc chữa dịch sai người ban cấp”, có thể biết đây là trận dịch tả. Thi hào Nguyễn Du chết trong trận dịch này.
Sau Việt Nam, Trung Quốc phải hứng chịu trận dịch này suốt năm 1821, phần “Chí”, mục “Tai dị” trong Thanh sử cảo ghi nhận dịch phát vào tháng 3 tại huyện Nhâm Khâu (Hà Bắc), sau đó bùng phát ở khoảng 30 địa phương của nhiều tỉnh, tuy không ghi con số thống kê tử vong cụ thể nhưng mô tả các nơi đều là đại dịch, người chết vô số, không đếm xuể.
Trên bình diện quốc tế, theo giới nghiên cứu lịch sử bệnh truyền nhiễm Trung Quốc thì nguồn cơn trận dịch tả này khởi phát ở Ấn Độ vào năm 1817, sau đó theo các thuyền buôn lan về phía đông đến khắp Đông Nam Á rồi Trung Quốc, lan về phía tây đến các xứ ven Địa Trung Hải.
Thực lục chép “dịch phát ở Hà Tiên rồi lan ra toàn quốc”, và trong khi vua Minh Mạng còn đang lo cầu đảo với tâm trí rối bời bảo các quan: “Theo sách vở chép thì bệnh dịch chẳng qua chỉ một châu một huyện, chưa có bao giờ theo mặt đất lan khắp như ngày nay”, thì Phạm Đăng Hưng tâu rằng “thần nghe dịch bệnh từ Tây dương sang”.
Lời tâu của Phạm Đăng Hưng cho thấy triều thần đã có người biết dịch bệnh truyền nhiễm từ xa, mà nay thấy khế hợp với vấn đề nguồn gốc lây truyền dịch bệnh qua các thuyền buôn đến từ Ấn Độ mà các học giả Trung Quốc nêu ra.
Trận lớn hơn xảy ra vào năm 1849 (Tự Đức năm thứ 2), số người chết gấp 3 lần so với trận năm 1820. Tháng 7, kinh sư và nhiều tỉnh phát dịch, hoãn kỳ thi. Tháng 12, ghi nhận số người chết ở Vĩnh Long đến 43.400, ở Quảng Bình chết 23.300 người (còn ở nhiều tỉnh khác chưa báo cáo). Tháng 1-1850, thống kê của Bộ Hộ cho biết số tử vong trong năm 1849 là 589.460 người (dân số lúc này khoảng 8 triệu). Trận dịch này cực lớn nhưng thông tin rất ít, không nói tên dịch bệnh, chỉ nói dịch tràn lan do khí độc (癘氣/lệ khí) phát tán.
Những năm kế tiếp lại thêm nhiều trận rất lớn ở các tỉnh từ Quảng Trị ra Bắc, như năm 1851 ở Lạng Sơn dịch bệnh kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11, tử vong đến 4.480 người; và thống kê trong hai năm 1852-1853 ở một số tỉnh Bắc Kỳ cho thấy số tử vong đến 9.074 người.
Những trận dịch phạm vi vùng miền hoặc tỉnh, huyện cấp độ khá lớn có thể kể vào các năm 1863, 1875, 1876, 1887, 1888. Từ tháng giêng đến tháng 5-1863, dịch bệnh ở Thừa Thiên, Quảng Trị, Định Tường nghiêm trọng: Quảng Trị chết 2.600 người, Định Tường chết 1.670 người, tháng 8 năm này dân Nam Kỳ lâm nạn đói. Tháng 11-1875, dịch bệnh cùng lúc phát ở nhiều tỉnh như Hà Nội, Ninh Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Hải Dương, Nam Định, Thái Nguyên, Sơn Tây, Tuyên Quang, Phú Yên, Bình Thuận, nặng nhất là ở Khánh Hòa.
Địa bàn cấp huyện bị trận dịch nặng nề nhất là Triệu Phong (tỉnh Quảng Trị), trong 2 năm 1876-1877 số tử vong lên đến 4.326 người. Năm 1887, ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa dịch phát từ tháng 4 đến tháng 9 mới lắng, số liệu riêng tỉnh Thanh Hóa chết đến 9.500 người.
Những ghi chép quý về chủng ngừa
Từ tháng 11-1887 đến tháng 6-1888, trận dịch đậu mùa hoành hành dữ dội ở tỉnh Quảng Ngãi, thống kê thấy cả đàn ông và đàn bà chết 13.934 người. Triều đình Huế phải phối hợp với thầy thuốc Tây lo việc chủng ngừa đậu mùa diện rộng cho người dân. Bệnh đậu mùa trong ghi chép thấy xuất hiện năm 1801 qua cái chết của Đông cung Cảnh tại Gia Định, năm này không nói có dịch trong dân nhưng lại chép rõ tên bệnh làm chết Đông cung.
Tại Trung Quốc, trận dịch đậu mùa khủng khiếp được ghi nhận vào năm 1530 (Minh Gia Tĩnh thứ 9) trong sách Đậu chứng lý biện, với mô tả dân chết hơn nửa phần. Việc chủng đậu theo y thuật Tây phương được thực hiện lần đầu năm 1805 tại Áo Môn, cùng lúc với sự kiện xuất bản tài liệu Anh Cát Lợi quốc tân xuất chủng đậu kỳ thư (Phép chủng đậu mới lạ ở nước Anh) bằng tiếng Trung do bác sĩ của Công ty Đông Ấn Anh A. Pearson biên soạn.
Việc này được tiếp tục vào những năm 1815 tại Quảng Châu, năm 1841 tại Thượng Hải, năm 1861 tại Triệu Khánh (Quảng Đông), năm 1863 tại Phật Sơn (Quảng Đông), 1864 tại Bắc Kinh, 1882 tại Cửu Giang (Giang Tây), 1883 tại Nghi Xương (Hồ Bắc), 1886 tại Trấn Giang (Giang Tô), 1890 tại Thành Đô (Tứ Xuyên) [theo Bành Trạch Ích, Tây Dương chủng đậu pháp sơ truyền Trung Quốc khảo, tạp chí Khoa Học, số 32, 7-1950].
Sử nước ta nói chung và Đại Nam thực lục nói riêng ghi chép dịch bệnh quá đỗi sơ lược, thi thoảng mới chép rõ tên dịch bệnh, còn phần lớn chỉ nói chung chung là “dịch” hoặc “đại dịch”. Trận dịch lớn năm 1820 gián tiếp có thể nhận định là dịch tả, trận dịch năm 1888 ở Quảng Ngãi được chép rõ là dịch đậu mùa, còn trận cực lớn năm 1849 vẫn chưa rõ tên dịch. Ở Trung Quốc, Trương Đại Khánh thống kê trong 50 năm (1840-1910) có 3 loại dịch bệnh xảy ra nhiều nhất là: dịch tả (霍乱/hoắc loạn) 45 lần, dịch hạch (鼠疫/thử dịch) 34 lần, đậu mùa (天花/thiên hoa) 11 lần.
Sử nước ta, nói riêng trong Đại Nam thực lục, do giới hạn về kiến thức khoa học cộng với quan niệm dịch bệnh do trời, nên hạn chế ở phần miêu thuật tình trạng cá nhân người bệnh cũng như những diễn biến dịch bệnh trong cộng đồng. Nhưng ở góc độ khác, công tác hành chánh khá tiến bộ qua việc thống kê tử vong rất sát sao, việc chẩn cấp ủy lạo trong những trận dịch, cho quân dân nghỉ ngơi hoặc miễn thuế sau dịch… có thể cho người thời nay phần nào thấy được sự quý trọng sinh mạng dân đen của triều đình, có lẽ là điểm sáng đáng nói trong hoạt động xã hội thời nhà Nguyễn.
Tin nhảm về dịch bệnh
Viên Mai chép trong Tùy Viên thi thoại (quyển 2): “Danh y Tô Châu Tiết Sanh Bạch nói bừa rằng: Trước thời Tây Hán, không nghe nói trẻ con mắc bệnh đậu mùa. Từ lúc Mã Phục Ba (Viện) đi đánh Giao Chỉ, lính tráng mang bệnh về, gọi là lỗ sang (虜瘡/bệnh mụn rợ), không phải tên bệnh đậu (痘)”.
Viên Mai (Tử Tài) nổi tiếng văn đàn thời Thanh, nhưng làm sách lại để lọt tin nhảm, hỏng biết Tiết danh y nghe vụ này ở đâu, bởi từ Tây Hán về trước không riêng đậu mùa mà nhiều chứng dịch khác cũng đều chưa rõ tên, sử chỉ chép chung là dịch tật, dịch bệnh. Mặt khác, Truyện Mã Viện trong Hậu Hán thư không thấy nói bệnh lỗ sang, mà chỉ nói: “Kiến Võ thứ 20, Giáp Thìn (44 sau CN), Mã Viện chinh Giao Chỉ, quan quân trải chướng dịch, mười phần chết hết bốn, năm”. Chướng dịch (瘴疫) hay chướng lệ (瘴癘) là bệnh do nhiễm khí độc rừng núi, về sau cũng chỉ sốt rét.
TTO – Không còn co cụm, ‘tự cách ly’ trong những lo lắng quá đáng, những ngày này nhiều người đã chọn một tâm thế khác, điều chỉnh lại nếp sống, thói quen sinh hoạt, xây dựng nền tảng hệ miễn dịch khỏe mạnh, sức đề kháng tốt để sống vui, khỏe hơn.
Bệnh dịch không chỉ thử thách sức đề kháng của con người sinh học, chúng là chất thử nghiệt ngã đối với con người xã hội, kinh tế và chính trị. Sau hàng triệu năm tiến hóa sinh học và kỹ thuật tổ chức xã hội, có lẽ nỗi ám ảnh này sẽ chưa mất đi trong tương lai gần.
Bức họa Khải hoàn của thần chết (Pieter Bruegel the Elder, c. 1562.)
Mùa thu năm 1820, tham tri Lễ bộ Nguyễn Du đang chuẩn bị cuộc hành trình sang Bắc Kinh. Vị quan chức được nhà vua mới lên ngôi Minh Mệnh cử đi sứ trong một nhiệm vụ đặc biệt: báo tang vua cha Gia Long và xin cầu phong. Không may là một trận dịch tả đã tràn qua Việt Nam vào thời điểm đó, và nhà thi hào cùng với hàng trăm nghìn người Việt khác đã bỏ mạng. Trận dịch này bắt đầu từ năm 1816, quét qua Ấn Độ từ 1820 và bắt đầu vào Việt Nam trong cùng năm, lan từ Hà Tiên lên Bắc thành. Sử nhà Nguyễn thống kê: số hộ khẩu chết tất cả là 206.835 người, không kể số nam phụ lão ấu ở ngoài hộ tịch. Nhà nước bỏ ra 730.000 quan tiền để cứu chẩn, mai táng.
Với quy mô dân số Việt Nam dưới 10 triệu người vào đầu thế kỷ XIX, hơn 4% dân số đã bị thiệt mạng. Nếu một trận dịch với tỉ lệ tương tự vào năm 2020, 4 triệu người Việt Nam sẽ bị đe dọa tính mạng.
Dịch bệnh không chỉ là vấn đề y tế, đó là số phận của con người, của xã hội loài người, của thể chế chính trị, và của các nền văn minh. Sự chết chóc do chúng mang lại không chỉ phản ánh các hệ quả sinh học lên giống loài mà còn hưng vong triều đại, thăng trầm xã hội và thịnh suy đế chế và sự cân bằng chính trị-quân sự toàn cầu. Cung nỏ, vó ngự, thuốc súng có sức mạnh kiến tạo hay hủy diệt xã hội, và vi trùng cũng thế. Vào đầu thế kỷ XVI, những kẻ chinh phục Tây Ban Nha mang theo gươm, súng và ngựa cập bến một châu lục vừa được khám phá: châu Mỹ, với mục tiêu chinh phục đế chế Inca vĩ đại. Thực tế, bệnh đậu mùa mà họ mang theo mới chính là vũ khí chết chóc nhất, khiến cho hơn một nửa dân bản địa mất mạng. Trong số này có nhà vua Huayna Cupac. Cái chết của ông đẩy người Inca vào nội chiến, hỗn loạn, và đưa tới việc Francisco Pizarro với đạo quân 168 người có thể đánh chiếm một vùng lãnh thổ bằng cả Italia và Tây Ban Nha cộng lại.
Sự `mong manh’ của các cấu trúc chính trị-xã hội
Tại sao bệnh dịch lại là vấn đề ám ảnh loài người?
Việc sống tập trung tại các đồng bằng và thành thị là một điểm yếu “sinh học” của loài người. Dân số đủ đông để dịch bệnh tồn tại liên tục và có thể tạo ra nguy cơ bùng nổ dịch bất cứ lúc nào. Lấy đậu mùa làm ví dụ. Dù khảo cổ học tìm thấy dấu vết của chúng từ cách nay 350.000 năm tuy nhiên bằng chứng về sự lan rộng của chúng chỉ thực sự gia tăng từ khoảng 10.000 năm TCN. Không phải ngẫu nhiên mà đó là thời điểm xuất hiện nông nghiệp và con người bắt đầu xác lập các khu định cư ở vùng Trung Đông. Các xã hội có tập hợp khoảng 100.000 đến 200.000 dân là đủ để cho các mầm bệnh duy trì thường xuyên. Nguy cơ đó rõ ràng là lớn gấp nhiều lần ở các thành phố hơn hai mươi triệu dân như Mexico City hay Thượng Hải. Làm nông nghiệp và thuần hóa động vật là một cầu nối khác giữa con người với các virus. Với việc thuần hóa động vật, chúng ta không chỉ mời bò, gà, lợn, cừu… vào nhà mà còn cả một thế giới các đạo quân sinh học khác, từ chuột tới các loài vi khuẩn gắn liền với các động vật này. Điều nghiêm trọng hơn là các động vật này là cầu nối nhiều loài vi rút có mặt ở nhiều giống loài tự nhiên đối với con người. Lấy chủng virus Corona làm ví dụ. Báo cáo gần đây của WHO cho thấy có nhiều bằng chứng virus corona chủng mới có mối liên hệ với các loại virus corona tương tự được biết tới ở dơi, cụ thể là ở phân loài dơi Rhinolophus có địa bàn phân bố ở miền Nam Trung Quốc, và châu Á, châu Phi. Riêng tại các hang dơi ở Trung Quốc đã tìm thấy 500 loại virus corona khác nhau. Nghiên cứu huyết thanh học được tiến hành với người dân nông thôn sống gần các hang động có dơi sinh sống cho thấy tỉ lệ huyết thanh dương tính với virus corona ở phân loài dơi này là 2,9%. Điều này cho thấy sự tiếp xúc giữa con người với dơi có thể phổ biến mặc dù mắt xích trung gian của sự lan truyền virus này vẫn chưa được nhận dạng.
Các bức tường thành, làng xóm, các thành phố và đô thị là không gian lí tưởng cho bệnh dịch. Dân cư đông đúc và tình trạng kém vệ sinh là môi trường để các loài động vật cư trú bên cạnh con người, trong khi thương mại, chiến tranh, du hành, hành hương, truyền giáo, và các quá trình khác của toàn cầu hóa thúc đẩy sự lan truyền của bệnh dịch với quy mô chưa từng có.
“Cái chết đen” là một trong các ví dụ tiêu biểu về cách thức một bệnh dịch trong vòng bốn năm đã thay đổi diện mạo của thế giới và nền văn minh nhân loại.
Cái chết đen ám chỉ tới trận dịch hạch lan tràn trên lục địa Á-Âu giữa thế kỷ XIV. Nổi tiếng trên khắp châu Âu với tên gọi Cái chết đen, dịch bệnh này được cho là gây ra bởi vi khuẩn Yersinia pestis và lây lan thông qua loài bọ chét sống trên chuột đen. Quy mô của bệnh dịch này cũng tiến hóa theo bước đi của lịch sử nhân loại, gắn liền với ba trận dịch lớn có quy mô toàn cầu:
1. Trận dịch thời Justinian (541).
2. Cái chết đen (1348).
3. Trận dịch thứ ba (1855).
Chúng là những ví dụ cho thấy sự ‘mong manh’ của các cấu trúc chính trị-xã hội của con người, đồng thời phản ánh hệ quả của quá trình toàn cầu hóa, chiến tranh, thương mại và mở rộng đế chế đã tạo ra các mạng lưới mà theo đó không chỉ có tơ lụa mà chuột và vi khuẩn cũng được du hành toàn cầu.
Gắn liền với chúng là vận mệnh của hàng trăm triệu người, hưng vong của nhiều triều đại, xã hội và đế chế. Đó là vào năm 1344, Janibeg-Hãn của Kim Trướng Hãn Quốc (một nước Hồi giáo do người Mông Cổ thiết lập ở Trung Á) tiến hành cuộc tấn công vào bán đảo Crimea và bao vây thành phố Caffa (ngày nay là Feodosia). Thành phố này là một trung tâm thương mại chiến lược trên biển Đen và đang nằm dưới sự kiểm soát của các thương nhân Genoa. Khi chiến thắng đang ở tầm tay, đạo quân Mông Cổ bất ngờ bị dịch hạch vào tháng 10/1346. Quân lính bị chết chỉ sau 7-10 ngày nhiễm bệnh.
Trong sự tuyệt vọng, Janibeg cho lính thu thập xác người bị dịch hạch và ném vào trong thành. Đây là câu chuyện đầu tiên về việc con người sử dụng “vũ khí sinh học” trong chiến tranh. Vào tháng 10/1347, Janibeg chiếm được thành phố và những thương nhân Genoa chạy về Italia. Bệnh dịch nhanh chóng theo chân họ về đảo Sicily và sau đó là Genoa. Tới mùa hè năm 1348, Marseilles và Paris trở thành các nạn nhân tiếp theo. Năm sau đó, chúng xuất hiện ở vùng thung lũng sông Rhine và tràn vào vùng đất ngày nay là lãnh thổ nước Đức. Ở phía Tây, dịch bệnh cũng vượt qua eo biển tới London, trong khi một năm sau đó, chúng chinh phục Denmark và bán đảo Scandinavia (nơi 60% dân Norway được cho là bỏ mạng).
Vào lúc đỉnh điểm của các trận dịch này, có 800 người chết ở Paris một ngày. Con số này ở Pisa là 500 và 600 ở Vienna. Một nửa dân số của thành phố Siena đã chết trong vòng một năm. Tương tự Floren mất 50.000 dân trên tổng số 100.000 người. Người chép sử của thành phố Siena là Agnolo di Tura đã than khóc:
“Không từ nào có thể tả hết tính chất khủng khiếp của những sự kiện này… Tôi đã chính tay mình chôn cất năm đứa con trai của mình”.
Sử gia người anh Alistair Horne ước tính trong vòng bốn năm từ khi Janibeg ném các xác chết vào thành Caffa, một phần ba dân số thế giới từ Iceland tới Ấn Độ đã bị thiệt mạng. Những thống kê khác chỉ ra con số khoảng 50% dân số thế giới đã bị chết, và con số này có thể vào khoảng 75-100 triệu người.
Trận dịch hạch lớn cuối cùng là vào năm 1855, bắt đầu ở Trung Quốc, và đã giết chết 10 triệu người chỉ riêng ở Ấn Độ. Chỉ đến năm 1895 bác sĩ Alexandre Yersin mới tìm ra nguyên nhân của dịch này khi nghiên cứu sự bùng phát ở Hong Kong.
Vũ điệu tử thần (trong Biên niên sử Nuremberg).
Câu chuyện về các trận dịch, vì thế, là câu chuyện về số phận, trình độ kỹ thuật, và khả năng tổ chức của các xã hội người. Nó giúp chúng ta hiểu thêm về tình hình sức khỏe, vệ sinh, sức đề kháng của xã hội, mô hình thể chế hay khả năng thích ứng của các hệ thống chính trị. Hãy lấy cuộc viễn chinh của Napoleon vào nước Nga làm ví dụ. Năm 2001, các công nhân xây dựng tìm thấy một hố chôn tập thể khoảng 2.000-3.000 người tại Vilnus, Lithuania. Từ các bộ đồng phục và huy hiệu, đồng phục… người ta tin rằng đạo quân này chính là những người lính Pháp được chôn cất vội vã trên đường tháo chạy khỏi nước Nga vào năm 1812. Điều đáng chú ý là các nhà khoa học tìm ra nguyên nhân cái chết của 1/3 những người lính này là do sốt phát ban. Đây là một chỉ dấu quan trọng góp thêm những cánh cổng vào quá khứ. Trước giờ, các sử gia vẫn chủ yếu hướng tới thời tiết mùa đông nước Nga, ý chí của người Nga, sự thiếu chuẩn bị của người Pháp… Nhưng rõ ràng là vị hoàng đế vĩ đại Napoleon không chỉ bị đánh gục bởi các bộ óc thiên tài của người Nga mà còn bởi chấy rận (các vật chủ truyền bệnh).
Xét rộng ra, “Cái chết đen” đã tham gia vào việc thay đổi nhiều trang sử của nhân loại.
Dịch bệnh này đã làm thay đổi con người sinh học. Nghiên cứu của Sharon DeWitte (University of South Carolina) khảo sát phụ nữ London trong hai giai đoạn: năm 1000–1200 và 1350–1540 và gợi ý rằng “Cái chết đen” gây ra tác động làm giảm chiều cao của phụ nữ.
Thay đổi thể chất và tinh thần xã hội
Dịch hạch không chỉ thay đổi thể chất mà còn tinh thần của xã hội. Trong cơn hoảng loạn tuyệt vọng trước cái chết, những người Thiên Chúa giáo cuồng tín đã tập hợp lại thành các Flagellants. Từ này trong gốc Latin có nghĩa là roi da, ám chỉ việc họ tự nguyện hành hạ cơ thể mình để cứu chuộc tội lỗi hòng xin Chúa trời giúp thoát khỏi dịch bệnh. Tập hợp thành hàng vạn người, họ kéo qua các lãnh địa và làng mạc châu Âu, đặc biệt là trên lãnh thổ các vùng đất ngày nay là Đức, Pháp, Ý. Thực tế việc tập trung đông người và di chuyển liên tục đã làm tăng nguy cơ lây bệnh của những người này, trong khi các vết thương hở trên cơ thể tạo ra cơ hội cho bệnh tật xâm nhập.
Một hệ quả nghiêm trọng hơn là việc họ reo rắc thù nghịch tôn giáo và tộc người đằng sau các cuộc hành trình này. Người Do Thái được cho là nguyên nhân của dịch bệnh. Dù cũng bị ảnh hưởng của dịch, nhưng việc giữ vệ sinh và lối sống tương đối phân tán của người Do Thái làm cho họ ít bị ảnh hưởng. Người Thiên Chúa giáo cáo buộc người Do Thái đã đầu độc các nguồn nước để hủy diệt các xã hội châu Âu và việc lan truyền các tin đồn này tạo ra nhiều cuộc phá hủy và tàn sát đối với cộng đồng Do Thái. Nhiều nhóm trong số này tại các thành phố như Strasbourg, Mainz, Cologne, Munich… đã bị giết hại một cách thảm khốc.
Tâm lí bài người Do Thái có lẽ đã dần được hình thành từ những tin đồn, nỗi ám ảnh và sự hoảng loạn như thế. Rome không được xây trong một ngày, và lịch sử lâu dài này đã gây ra hậu khủng khiếp với các lí thuyết tộc người, chủng tộc hiện đại của chủ nghĩa phát xít Đức thế kỷ XX.
Tất cả các khía cạnh chính trị, xã hội của châu Âu đều bị tác động bởi trận dịch hạch giữa thế kỷ XIV.
Cấu trúc chính trị xã hội là một ví dụ. Ở London vào năm 1357, 1/3 tài sản của thành phố bỏ hoang vì không có đủ dân số. Lương bổng ở các thành phố bắt đầu gia tăng sau trận dịch. Đất đai bỏ hoang cũng thúc đẩy làn sóng di chuyển của nông dân. Chuyển dịch xã hội vì thế gia tăng theo không gian địa lý và cấu trúc xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà sự năng động xã hội này sẽ thúc đẩy cho một bước tiến mới của lịch sử châu Âu ở giai đoạn sau.
“Cái chết đen” tham gia góp phần làm thay đổi lịch sử châu Âu, lịch sử các đế chế và lịch sử toàn cầu. Người Mông Cổ và các vương quốc của họ bắt đầu mất đi các sự kết nối cần thiết, phân tán, và bị địa phương hóa mạnh hơn. Đúng hai thập kỷ sau trận dịch, một người nông dân-nạn nhân của các nạn đói và dịch bệnh tên Chu Nguyên Chương đã lãnh đạo người Hán giành lại quyền kiểm soát vùng bình nguyên giữa hai con sông Hoàng Hà-Trường Giang và lập ra một đế chế mới có tên Đại Minh.
Khi sức ép của quân Mông Cổ lên châu Âu giảm đi, đó là thời cơ cho một đế chế khác nổi lên giữa lục địa Á-Âu: Ottoman. Dịch hạch rõ ràng đã đã làm thay đổi ngôi thứ của các đế chế. Việc quân Ottoman kiểm soát các tuyến đường thương mại và việc các thành thị dọc Địa Trung Hải của Italia bị tàn phá bởi dịch bệnh đã gây ra một chuyển dịch lớn về địa chính trị ở châu Âu nhằm chuẩn bị cho thời kỳ tư bản hiện đại. Đó là việc các trung tâm kinh tế sầm uất của Venice, Genoa… sẽ dần dần được thay thế bởi người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, và sau đó là Anh, Pháp…
Những cường quốc này sẽ thúc đẩy thương mại đường biển thay vì con đường tơ lụa trên bộ truyền thống. Điều đó mở ra các cuộc phát kiến địa lý, tìm ra châu lục mới, thương mại hàng hải toàn cầu, chế độ nô lệ, chủ nghĩa thực dân….
Một chú giải nhỏ cuối cùng của câu chuyện quá khứ đau thương này xin được dành cho nàng công chúa của nước Anh: Joan, cô con gái được yêu chiều của vua Edward III (1312–1377). Vị vua đang can dự vào một trong các cuộc chiến tranh, dàn xếp chính trị và hôn nhân quan trọng nhất của Tây Âu có tên gọi: Chiến tranh Trăm năm (1337 – 1453). Để bảo đảm cho thắng lợi của mình trước người Pháp và mở rộng các vùng đất đang kiểm soát trên lục địa, Edward III quyết định gả con gái cho hoàng tử kế ngôi Peter của vương triều Castile (Tây Ban Nha). Cuộc hôn nhân chắc chắn sẽ tạo ra một bước ngoặt mới của cuộc chiến mà hệ quả của nó là việc vẽ lại bản đồ châu Âu.
Sau ba năm đính ước, mùa hè năm 1348, Joan được hộ tống từ Anh tới Tây Ban Nha bằng một hạm tàu vũ trang nghiêm ngặt gồm bốn chiếc. Một trong số đó được dành riêng cho xiêm y và đồ trang sức của nàng công chúa. Khi hạm thuyền tới Bordeaux, bệnh dịch đã tràn tới thành phố này, tuy nhiên người Anh dường như chưa nhận thức được tính chất nghiêm trọng của nó. Rất nhanh chóng, những người tùy tùng bỏ mạng, và tới lượt nàng công chúa 15 tuổi, qua đời ngày 1/7/1348.
Joan đã lỡ hẹn một cuộc hôn nhân, còn nước Anh lỡ hẹn với một đồng minh. Lịch sử không có nếu. Còn những gì diễn ra sau sự lỡ hẹn này là kết cục cuối cùng nước Anh thất bại trong cuộc chiến Trăm năm, nước Pháp tập quyền bắt đầu hưng thịnh, và lịch sử châu Âu sang trang mới.
Sẽ là cường điệu quá mức khi nói rằng chuột đen hay những con bọ chét đã vẽ lại bản đồ châu Âu, đánh tráo trật tự đế chế hay xác lập quyền lực toàn cầu, nhưng rõ ràng chúng đã tham gia vào các thời khắc quan trọng như thế của lịch sử con người. Và sẽ còn tiếp tục can dự trong tương lai.
Để kết lại, nếu có bài học gì từ quá khứ các trận dịch và số phận đau thương của con người thì đó chính là khả năng kiểm soát dịch bệnh và ổn định tình hình của người quản trị xã hội. Các tin đồn và hệ quả bi thảm của chúng là khía cạnh khác cần phải được xem xét nghiêm túc từ góc độ chính sách. Lịch sử cho thấy bản thân dịch bệnh đã là thảm họa, tuy nhiên các tin tồn và phản ứng thái quá có thể tạo ra sự hỗn loạn và chết chóc ở tầm mức lớn hơn nhiều, bao gồm có chiến tranh, bạo lực xã hội, xung đột tộc người, tôn giáo….
Từ việc người Do Thái bị săn lùng giữa những “Cái chết đen” cho tới giá khẩu trang tăng gấp 10 lần, câu chuyện của dịch bệnh vượt xa khỏi các bệnh viện. Đó là phép thử nghiệt ngã không chỉ đối với tính dẻo dai của tổ chức xã hội, tiềm lực của tích lũy xã hội mà còn là khả năng phản ứng của thể chế chính trị và nhà nước nhằm đối phó trong thời gian ngắn với sự sống còn của giống loài.
Thật khó tin nếu có một bác sĩ nói với bạn rằng đừng có điều trị nếu bị ung thư! Nhưng đây lại là bác sĩ được mệnh danh “Lương tâm của giới y học” của Nhật Bản.
Makoto Kondo, 65 tuổi, là bác sĩ xạ trị bệnh viện đại học Keio, với 40 năm điều trị ung thư, ông đã rất can đảm để bày tỏ những ý kiến về sức khỏe có liên quan đến cá nhân và cộng đồng mà mọi người không tiện nói, được người dân Nhật yêu mến gọi bằng cái tên “Lương tâm của giới y học”
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống làm nghề y, bác sĩ Kondo tốt nghiệp đại học Keio, sau đó sang Mỹ du học, và lấy bằng tiến sĩ tại đây.
Sau khi về nước ông vào làm giảng viên tại đại học Keio, chuyên về điều trị xạ trị cho bệnh nhân ung thư, cũng là người nổi tiếng tiên phong về liệu pháp điều trị bảo tồn vú nổi tiếng trên Nhật Bản. Những thành tựu cống hiến của ông được toàn thể xã hội đánh giá cao, năm 2012 ông giành được giải thưởng “Kikuchi Kan lần thứ 60”( giải thưởng cho các giới nhân sĩ có đóng góp to lớn cho nền văn hóa Nhật Bản)
Tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất nói về các cảnh báo về y tế như “ ung thư đừng vội phẫu thuật”, “ Bệnh nhân ơi, không nên đấu tranh với ung thư”, “ liệu pháp tự bỏ mặc phát triển trong điều trị ung thư”…
Makoto thực sự được các phương tiện thông tin đại chúng biết đến vào năm 1988, khi ông có bài viết “ Không cần cắt bỏ ung thư vú mà tự khỏi” được đăng trên tạp trí “ văn nghệ Xuân Thu” của Nhật Bản. Bởi bài viết này trái ngược hoàn toàn so với nhận thức của đại đa số dân chúng, nên rất thu hút sự chú ý của người đọc, do đó có ảnh hưởng rất lớn.
Tuy nhiên, bởi bài viết của ông đi ngược lại với những nguyên tắc thông thường chính quy trong giới y học, nên từ năm 1988, ông Kondo vĩnh viễn không được thăng chức tại trường đại học Keio. Đối với vấn đề điều trị ung thư, trong cuốn sách mới của mình, ông Kondo có những cách nhìn nhận khác nhau.
Điều đáng sợ không phải là ung thư, mà là “ điều trị ung thư”
Tại sao có môt số người ban đầu tinh thần rất tốt, sau khi bị ung thư lại sống không được bao lâu? Đó là bởi vì họ tiếp nhận “ cách điều trị ung thư”.
Chỉ cần “không điều trị” ung thư, bệnh nhân có thể giữ cho mình được trạng thái tinh thần tỉnh táo, cho đến thời khắc cuối cùng của cuộc đời. Chỉ cần có phương pháp điều trị đúng, cơ thể cũng có thể hoạt động tự do bình thường. Có rất nhiều trường hợp ung thư không có đau đớn. Các cơn đau đớn thật sự có thể khống chế được.
Nếu bạn không xuất hiện các triệu chứng như đau đớn, khó chịu, không ăn được…, lại bị phát hiện có ung thư khi khám sức khỏe, như vậy “ khối u” đó nhất định là “ u lành tính”. Chỉ dựa vào phim X quang có thể kiểm tra ra ung thư vú có đến 99% là u lành tính, nhưng đại đa số các bệnh nhân vẫn tiến hàn phẫu thuật cắt bỏ vú, xin mọi người hãy cẩn thận điều này.
Ung thư thật sự phát hiện dù sớm đi nữa cũng không có tác dụng.
Tế bào ung thư gốc khai sinh tại thời điểm đầu tiên, thời gian sống của người bệnh đã được xác định, khi bệnh được phát hiện sớm khiến thời gian sống thêm có vẻ lâu hơn. Vì vậy, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cần phải quan sát xem “ tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư có được 10 năm không”, mới có thể phán đoán được rốt cuộc một bệnh nhân có được “điều trị khỏi“ không.
Phẫu thuật là tổn thương nghiêm trọng do con người tạo ra
Sau khi phẫu thuật xong, thể lực sẽ giảm xuống, cơ thể sẽ rất dễ bị nhiễm trùng, và còn có thể mang lại những di chứng suốt đời không thể điều trị khỏi, chết trên bàn phẫu thuật cũng là chuyện thường có trong điều trị ung thư. Nếu bác sĩ khuyên bạn làm phẫu thuật, vậy tốt nhất bạn nên suy nghĩ thật kỹ lưỡng, sau khi làm phẫu thuật xong thì sẽ như thế nào.
Chú ý rằng việc phẫu thuật rất có thể càng kích thích tế bào ung thư. Trong giới y học có một cách nói hình tượng: “ Một khi động dao phẫu thuật, tế bào ung thư sẽ bùng phát như một trận bão lửa, bùng nổ mạnh như mìn vậy.” Bởi phẫu thuật sẽ để lại vết thương, miệng vết thương sẽ phá vỡ ranh giới của các tế bào bình thường, các tế bào ung thư trong máu sẽ nhân cơ hội lan rộng, nhanh chóng thâm nhập vào các mô lành mạnh xung quanh, cuối cùng bùng phát nặng hơn.
Độc hại của hóa trị liệu
Người bị ung thư ở độ tuổi trưởng thành có thể dùng hóa trị liệu điều trị khỏi, đó là 4 loại ung thư sau, bệnh bạch cầu cấp, u lympho ác tính, ung thư tinh hoàn, ung thư biểu mô màng đệm tử cung, mà những loại ung thư này chỉ chiếm khoảng 10% tổng số tất cả các loại bệnh ung thư.
Hóa trị liệu có thể kéo dài được mạng sống của bệnh nhân hay không vẫn là một vấn đề cần phải đợi chứng minh, nhưng các loại thuốc dùng để hóa trị có độc tính rất mạnh, có thể mang lại những tác dụng phụ nghiêm trọng. Tuổi càng cao, thời gian hút thuốc lá càng nhiều, độc tính của phương pháp hóa trị liệu càng biểu hiện rõ ràng hơn. Có 5.9% bệnh ung thư, dù có điều trị hay không, thời gian sống đều như nhau.
Bất kể nền y học có phát triển đến như thế nào, ung thư ác tính đều không thể dựa vào sức người mà có thể điều trị khỏi được. Những câu chuyện cảm động lòng người đại loại như “ ung thư biến mất” “ sống sóầầt một cách kỳ diệu” đại đa số đều có liên quan tới u lành tính. U lành tính cũng giống như một cái mụn ở trên mặt, không cần quan tâm đến nó, tự nó sẽ biến mất, nhưng các bác sĩ lại thông qua các phương tiện thông tin đại chúng tuyên bố rộng rãi rằng “ Chúng tôi đã điều trị khỏi bệnh ung thư”.
Hãy cùng chờ xem những thay đổi tốt hơn
Cho dù bác sĩ có xác định bạn bị ung thư, nếu bạn cảm thấy đau khổ, vậy hãy cùng chờ xem những chuyển biến tốt hơn của bệnh. Nếu như bạn muốn điều trị, vậy hãy kiểm tra thật kỹ, xem liệu những chẩn đoán của bác sĩ có chính xác không.
Phẫu thuật thành công không phải điều trị khỏi ung thư.
Cho dù cuộc phẫu thuật có thành công mỹ mãn, không có bất kỳ sai sót nào, thì tế bào ung thư chắc chắn cũng nhất định sẽ tái phát lại vào một thời điểm nào đó.
Phương pháp điều trị càng “tiên tiến”, càng cần phải cẩn thận.
Có rất nhiều kỹ thuật điều trị ung thư vẫn đang ở giai đoạn thử nghiệm đã được mang ra áp dụng điều trị, chỉ cần khoác lên nó hai chữ “ tiên tiến” là bệnh nhân bị dắt mũi đến để thử nghiệm. Tóm lại, mọi người nên cẩn thận hơn với các phương pháp điều trị mang hai từ “ tiên tiến” bên mình.
Phương pháp chụp X quang toàn thân 360°- chụp cắt lớp Lượng bức xạ của 1 lần chụp CT tương đương với 200 -300 lần chụp X quang thông thường! Lượng sóng bức xạ của 1 lần kiểm tra CT có thể dẫn tới ung thư.
Tăng cường hệ miễn dịch có hiệu quả trong điều trị không?
Tăng cường hệ miễn dịch không có ích trong việc phòng và điều trị ung thư, thậm trí có thể nói là hoàn toàn không hiệu quả. Tại sao lại như vây? Bởi chức năng của những tế bào miễn dịch là tấn công các yếu tố bất thường từ bên ngoài thâm nhập vào cơ thể, nhưng tế bào ung thư là tế bào đột biến hình thành từ trong cơ thể, nên đối với hệ miễn dịch của con người tế bào ung thư không phải là kẻ thù. Tế bào ung thư có thể phát triển lên tới đường kính 1 cm, có thể vì vậy được phát hiện khi kiểm tra, tất cả đều là vì tế bào miễn dịch NK không coi tế bào ung thư là kẻ thù, đây là bằng chứng không thể chối cái việc hệ thống miễn dịch không thể tiêu diệt các tế bào ung thư. Vậy chúng ta phải làm như thế nào? Hãy quên ung thư đi, đừng làm phẫu thuật, cũng đừng làm xạ trị, càng không nên làm hóa trị liệu.
Đợi khi cơ thể bắt đầu khó chịu, hãy nghĩ cách để làm giảm những cơn đau đớn đó là được. Như vậy sau đó, bạn mới có thể kéo dài sinh mệnh của mình trong trạng thái thoải mái nhẹ nhàng nhất. Nếu bác sĩ không nói rõ ràng, thì cũng không nên hỏi, bởi vì không ai có thể biết rốt cuộc bạn sống được bao lâu.
Bất kể bệnh nhân bị ung thư hay bị bị các bệnh khác, đều đi khám và điều trị theo phác đồ điều trị của bác sĩ.
Nhưng bệnh nhân cũng không cần giao toàn bộ quyền quyết định sử phương pháp điều trị nào cho bác sĩ, bác sĩ cũng không có tư cách áp đặt với bệnh nhân.
Chúng ta có thể học theo những hòn đá không ngừng lăn kia.
Những hòn đá lăn liên tục đó sẽ không bị mọc rêu.
Chỉ có vận động cơ thể nhiều hơn, não bộ hoạt động nhiều hơn, cơ thể mới không bị rỉ sét. Hãy để cảm xúc trở nên phong phú hơn mỗi ngày, mỗi ngày đều để những cảm xúc vui vẻ đến với mình, “ Năm giác quan” của chúng ta (thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác, khứu giác) mới không trở nên buồn chán.
Hãy tránh xa những điều mang lại cho bạn sự khó chịu, trân trọng những niềm vui của cuộc sống. Tập các bài tập thể dục chân tay một cách đúng mực, hoạt ngôn, sử dụng não bộ nhiều hơn, để giữ sự linh hoạt của cảm xúc và giác quan.
Thường xuyên đi bộ, máu mới có thể vận chuyển lưu thông toàn thân, mới không bị tích tụ ở nửa thân dưới, huyết áp mới có thể ổn định.
Hãy cười to, có thể hỗ trợ giúp vận động cơ quan biểu hiện cảm xúc và cơ hoành, hô hấp sẽ sâu hơn, tuần hoàn máu sẽ tốt hơn, giúp cơ thể trở nên nóng hơn.
Ăn nhiều những món ăn ngon, làm nhiều những việc mình thích, để tâm trạng trở nên hân hoan vui vẻ, để cơ thể tiết ra nhiều serotonin, dopamine, endorphin, giúp tâm trạng trở nên vui vẻ hơn, theo cách này bạn sẽ thấy cuộc sống thật vui vẻ hạnh phúc.
Kinh nghiệm cho tôi biết, chỉ cần trong lòng vui vẻ, sẽ quên đi những điều nhỏ nhặt, ung thư cũng không bùng phát. “ Không trầm cảm” mới là phương pháp giữ gìn sức khỏe theo cơ chế tự nhiên, vĩ đại nhất.
Báo cáo tại hội nghị về ung thư ở Mỹ khẳng định tập Pháp Luân Công, một môn tu dưỡng tâm-thân có thể đẩy lùi bệnh ung thư.
Trong một loạt các cuốn sách của Makoto Kondo đều chủ trương, nếu bạn không may bị mắc bệnh ung thư, không nên điều trị, hãy để nó phát triển tự nhiên, điều trị ung thư không những không có ích, mà chỉ mang lại nhiều đau đớn hơn, bị dày vò nhiều hơn. Tóm lại, điều bác sĩ Kondo muốn nhắc nhở chúng ta đó là:
Các phương pháp chẩn đoán sàng lọc và điều trị bệnh ung thư hiện nay, nếu xuất phát từ góc độ hỗ trợ giúp nâng cao khả năng sinh tồn thay vì khả năng tiêu diệt tế bào ung thư, thì hầu như đều không có hiệu quả rõ ràng. Phương pháp tốt nhất hiện nay, đó là hãy giữ thói quen sinh hoạt tốt và giữ cho tâm trạng luôn được vui vẻ thoải mái.
Từ cách nhìn nhận của bác sĩ Kondo, chúng ta thấy một điểm tương đồng với quan điểm trị bệnh của y học cổ truyền Trung Hoa, rằng bệnh tại tâm sinh. Ngày xưa thời Hoàng Đế, con người rất coi trọng tu dưỡng đạo đức, nhiều trong số họ là những người tu luyện theo các trường phái Phật gia và Đạo gia, có đạo đức phẩm hạnh, sức khỏe tốt mà không cần dùng thuốc.
Sai lầm ai cũng mắc khi ngủ dậy không làm động tác này
– Chỉ vài động tác đơn giản sau khi ngủ dậy dưới đây sẽ tránh được nguy cơ đột quỵ, nhức mỏi, co cơ vai gáy, thoát vị đĩa đệm…
Hầu hết chúng ta đều sai lầm ngay sau khi tỉnh dậy, đó là không làm nóng cơ thể. Điều đó khiến cơ thể dễ bị nhức mỏi, co cơ vai gáy, thoát vị đĩa đệm, chèn ép thần kinh thậm chí đột quỵ…
Bài tập khởi động ngay sau khi ngủ dậy của Giáo sư, võ sư Lương Ngọc Huỳnh(Trưởng môn phái Lâm Sơn Động) dưới đây sẽ giúp mọi người có được ngày mới khỏe khoắn, phòng được các bệnh nói trên.
Theo GS-VS Lương Ngọc Huỳnh, thời tiết đầu xuân nóng lạnh thất thường khiến cho người lớn tuổi mệt mỏi hơn. Mọi người nên tập luyện, ăn uống điều độ, đi ngủ trước 11h đêm, thức dậy sau khi bình minh lên được 30 phút và thực hiện bài tập tự vận động dưới đây để đảm bảo sức khỏe.
– Đưa tay lên trán vuốt lên đỉnh đầu, ra sau gáy và cổ liên tục từ 7-9 lần nhằm đánh thức các dây thần kinh trung ương hoạt động lại.
– Lấy các đầu ngón tay chải đầu từ trán qua đỉnh đầu ra sau cổ, làm 5-7 lần.
– Tiếp tục xoa tay nhẹ, làm ấm, vuốt hai bên trán từ huyệt ấn đường từ trên lông mày kéo sang hai bên thái dương, nhằm lưu thông khí huyết và giảm nếp nhăn của trán. Lặp lại 10 lần.
– Kéo nhẹ hai đầu ngón tay từ ấn đường xuống sống mũi sang hai bên thái dương.
– Đặt tay ở hai mí mắt dưới kéo sang hai bên, để làm giảm bọng mắt, tác động trực tiếp vào các giác mạc làm cho mắt sáng hơn (chỉ vuốt ở phía dưới, không vuốt mí trên, gây sụp mí).
Hình ảnh con gà trong tranh Đông Hồ được thể hiện đa dạng, phong phú với nhiều ý nghĩa khác nhau, phản ánh sâu sắc văn hóa dân gian, lễ nghĩa, phong tục tập quán của người Việt từ thời xa xưa.
Từ bao đời nay, trong tranh Đông Hồ, hình ảnh con gà vốn trở nên gần gũi và quen thuộc với nhiều người, nhiều thế hệ. Thế nhưng không phải ai cũng hiểu hết ý nghĩa các loại gà trong dòng tranh dân gian này.
Có 6 loại gà trong dòng tranh Đông Hồ mà nhiều người chưa hiểu hết ý nghĩa
1. Bụi hoặc muỗi bay vào mắt, mắt bị cay xè:
Chớ có dụi mắt mà tổn thương đến giác mạc. Chỉ cần thè lưỡi liếm mép vài cái, nước mắt sẽ ứa ra “lùa vật lạ” ra khỏi mắt! Nên nhớ một điều: nếu bị mắt phải thì liếm mép bên trái và ngược lại.
02. Mắt nhắm không khít:
Một mắt nhắm không khít (do bị liệt dây thần kinh số 7 chẳng hạn), hơ ngải cứu bên mắt đối xứng. Ngày hơ nhiều lần, mỗi lần hơ độ vài phút, mắt sẽ dần dần nhắm khít.
03. Mũi nghẹt cứng:
Dù mũi bị nghẹt (tắc hoặc tịt) đến mức nào và đã bao lâu rồi, chỉ cần hơ ngải cứu vào đồ hình mũi trên trán – từ giữa trán (huyệt 103) đến đầu đôi lông mày (huyệt 26), độ một phút thôi, mũi sẽ thông thoáng ngay. Thật là một phép lạ đến khó tin.
04. Bả vai đau nhức, không giơ lên cao được:
Dùng đầu ngón tay trỏ gõ vài chụccái vào đầu mày (huyện 65) cùng bên đau. Vai hết đau và tay lại giơ lên cao được ngay.
05. Bong gân, trật khớp cổ tay:
Hãy bình tĩnh dùng ngón tay trỏ gõ mạnh độ vài chục cái vào sát đuôi mày cùng bên đau, cổ tay sẽ trở lại bình thường (muốn tìm điểm chính xác cần gõ, hãy lấy ngón tay miết nhẹ vào đuôi mày, thấy chỗ nào hơi lõm xuống, đấy là điểm chính xác – huyệt 100 – phản chiếu đúng cổ tay).
06. Bong gân, trật khớp vùng mắt cá chân:
Mắt cá chân bên nào bị trật khớp, hơ vùng mắt cá tay cùng bên. Mắt cá chân bị đau dù đã lâu ngày cũng lành trong vài phút. Các vận động viên quốc gia, các cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hãy nhớ lấy mẹo này để tự cứu mình và giúp người.
07. Bắp chân bị vọp bẻ (chuột rút):
Dùng cườm tay day mạnh vào bắp tay độ vài chục cái, vọp bẻ hết liền. Nhớ vọp bẻ chân bên nào thì day mạnh bắp tay bên đó.
08. Gai gót chân:
Nhớ hơ đúng điểm tương ứng bên gót chân đối xứng, chỉ vài phút thôi, gót chân hết đau liền. Hết sức cẩn thận kẻo bị phỏng.
09. Đầu gối đau nhức:
Hơ vùng khuỷu tay (cùi chỏ) cùng bên, chỉ độ vài phút đầu gối (khuỷu chân) hết đau liền.
10. Bị táo bón lâu ngày:
Dùng hai ngón tay (ngón trỏ và ngón giữa) lăn quanh miệng độ vài ba phút – khoảng độ 200 vòng, táo bón sẽ được giải quyết.
Cách lăn như sau: lăn từ mép phải vòng lên môi trên sang mép trái. Lăn tiếp vào phía dưới và giữa môi dưới rồi kéo thẳng xuống ụ cằm (hình thành một dấu hỏi lớn chiếm 3/4 quanh miệng). Nhớ lăn từ phải qua trái mới nhuận tràng, hết táo bón. Ngược lại lăn từ trái qua phải, sẽ càng táo bón hơn đấy!
11. Nhức đầu
a. Bất cứ nhức ở bộ phận nào trên đầu, mới nhức hay đã lâu, nặng hay nhẹ, chỉ cần hơ mu bàn tay trái (đã nắm lại) trên điếu ngải độ vài phút, nhức đầu như búa bổ cũng hết ngay. Nào! Thử làm xem.
b. Nếu nhức nửa đầu bên phải, hơ nửa mu bàn tay phía bên phải.
c. Nếu nhức nửa đầu bên trái, hơ nửa mu bàn tay phía bên trái.
d. Nếu nhức sau gáy, hơ phía cổ tay trên.
e. Nếu nhức đỉnh đầu, hơ ụ xương gồ cao nhất của ngón tay giữa.
f. Nếu nhức thái dương, chỉ cần hơ thái dương đối xứng 1 phút là hết ngay.
g. Nếu nhức cả hai bên thì hơ đi hơ lại.
h. Nếu nhức trán, hơ hết các đốt cuối của 4 ngón tay đã nắm lại.
i. Nếu chỉ nhức nửa trán bên phải, hơ 2 ngón tay bên phải.
k. Nếu chỉ nhức nửa trán bên trái, hơ 2 ngón tay bên trái.
l. Nếu chỉ nhức giữa trán, chỉ cần hơ 2 ngón giữa độ 1 phút là hết ngay.
k. Nếu nhức quanh đầu, hơ quanh mu bàn tay.
12. Mất ngủ
Bất kể mất ngủ vì nguyên nhân gì, xin nhớ không nên dùng thuốc ngủ vừa tiền mất vừa tật mang. Bí quyết đơn giản để có giấc ngủ ngon là: trước khi ngủ, hãy xoa đôi bàn chân cho ấm. Chân ấm là bụng ấm, thân ấm. Đó là điều kiện đầu tiên để ngủ ngon. Sau đó, dùng đầu ngón tay giữa bên trái gõ vào huyệt An thần (tức Ấn đường của Đông y hoặc huyệt 26 của Diện Chẩn – đầu đôi lông mày) độ vài phút sẽ làm nhịp tim ổn định và tinh thần được thư thái. Tay trái phản chiếu tim, Đầu ngón tay giữa phản chiếu cái đầu. Tâm và Thân an lạc – đó là những điều kiện cần thiết để ngủ ngon.
13. Sình bụng (do ăn không tiêu)
Nếu ở nhà, hãy lấy ngải cứu hơ vào rốn và quanh vùng rốn độ vài phút, bụng sẽ xẹp dần. Nếu đang ở bữa tiệc đông khách, hãy lặng lẽ đi ra ngoài đến chỗ vắng người, lăn bờ môi trên một lúc: trung tiện bùng phát, bụng hết sình ngay!
14. Bí tiểu
Người lớn hoặc các cháu nhỏ có lúc bí tiểu, hãy bình tĩnh vuốt cằm độ vài phút, “cơn bí” hết liền! Cách vuốt như sau: ngón tay cái giữ chân cằm, ngón tay trỏ vuốt ụ cằm từ trên xuống dưới nhiều lần. Bàng quang sẽ được tháo nút, nước tiểu tự do chảy (theo Diện Chẩn, ụ cằm phản chiếu bàng quang – huyệt 87). Các cụ già hay đi tiểu đêm, các cháu nhỏ hay đái dầm, trước khi ngủ độ 15 phút hãy tự vuốt cằm đi, các “tật” trên sẽ tự biến rất nhanh!
15. Nấc cụt
Đây là bệnh thông thường nhưng lại gây nhiều khó chịu, làm cho người bệnh mất ăn, mất ngủ. Ăn sao được khi vừa nâng bát cơm lên đã bị cơn nấc trào ngược rồi; ngủ sao được khi vừa nằm xuống, cơn nấc đã rộ lên âm vang khắp nhà! Có người phải nằm bệnh viện nhiều ngày mà vẫn không dứt căn. Chỉ cần làm một trong các hướng dẫn dưới đây, nấc cụt sẽ phải “đầu hàng”:
a- Dùng đầu ngón tay trỏ gõ mạnh vào đầu sống mũi nằm giữa cặp lông mày (huyệt 26 và312) độ 15 cái. Nấc cụt biến mất đến khó tin (huyệt 26 là an thần và huyệt 312 thông nghẽn nghẹt).
b- Dùng đầu ngón tay trỏ vuốt mạnh từ đầu cánh mũi bên trái xuôi xuống chân cánh mũi độ 10-15 cái. Nấc cụt chịu phép phải nằm im, không dám ló mặt ra!
c- Dùng 4 đầu ngón tay (từ ngón trỏ đến ngón út co sát lại với nhau thành một đường thẳng) vạch dọc giữa đầu (từ trán ngược lên đỉnh đầu) độ 15 cái là hết nấc cụt! Xin hãy thử làm xem!
16. Đau bụng
Có thể khỏi nhanh bằng một trong những cách chữa đơn giản sau:
a- Hơ (bằng điếu ngải) hai lòng bàn tay độ 10 phút.
b- Hơ hai lòng bàn chân độ 10 phút.
c- Hơ rốn và lấy tay lăn quanh miệng.
17. Đau tử cung:
a- Gạch rãnh nhân trung từ đầu rãnh (sát mũi) đến cuối rãnh (sát bờ môi trên) nhiều lần.
b- Gạch hai bờ nhân trung và bờ môi trên nhiều lần.
18. Đau đầu dương vật:
Chỉ cần hơ đầu mũi độ 1 phút, đầu dương vật sẽ hết đau.
19. Đau khớp háng:
Gạch và hơ đường viền cánh mũi một lúc, khớp háng hết đau. Nhớ đau khớp háng bên nào thì gạch đường viền cánh mũi cùng bên.
20. Đau gót chân:
Hơ và gõ gót chân đối xứng độ vài phút, gót chân đang đau hết ngay.
21. Đau bụng kinh:
Hãy vuốt môi trên vài phút, đau bụng kinh hết liền.
22. Ho ngứa cổ:
a- Chà xát hai cổ tay vào nhau nhiều lần. Nhớ hai bàn tay phải nắm lại đã trước khi cọ xát vào nhau.
b- Hơ cổ tay trong của bàn tay trái đã nắm lại vài phút, ho và ngứa cổ hết rất nhanh. Xin chú ý, bàn tay trái nắm lại, lật úp xuống: mu bàn tay phản chiếu đầu não, cổ tay phản chiếu cổ gáy. Bàn tay trái nắm lại, lật ngửa ra: lòng bàn tay phả chiếu trái tim, cổ tay phản chiếu cổ họng.
23. Huyết áo cao:
Hãy lấy đầu ngón tay út bấm vào huyệt (huyệt 15) nằm sâu sau loa tai bên trái nhiều lần (độ 1 phút), huyết áp sẽ hạ liền.
24. Huyết áp thấp:
Vẫn dùng đầu ngón tay út bấm sâu vào huyệt (huyệt 19) đầu nhân trung sát với mũi nhiều lần, huyết áp sẽ được nâng lên liền.
25. Huyết trắng:
Dùng hai đầu ngón tay – ngón trỏ và ngón giữa – để nằm ngang chà xát hai bờ môi một lúc.
26. Bế kinh:
Dùng lăn đôi lớn lăn xuôi từ rốn xuống háng cho đến khi bụng nóng lên. Ngày lăn nhiều lần; độ 3-5 ngày, kinh nguyệt sẽ trở lại bình thường.
27. Lẹo mắt (lên chắp)
Chỉ cần bấm vào chân mụn lẹo vài lần, mụn lẹo sẽ tiêu rất nhanh. Nhớ phát hiện càng sớm, chữa càng khỏi nhanh.
28. Liệt mặt (Thần kinh số 7 ngoại biên)
Chỉ cần nhìn qua bên mặt bị liệt đã thấy hai triệu chứng rõ rệt: mắt nhắm không khít và một bên mép bị méo xệch xuống. Cách chữa hết sức đơn giản đến mức khỏi rồi mà vẫn tưởng như nằm mơ. Nhanh độ 3 ngày, chậm độ 7 ngày là khỏi.
a. Lấy điếu ngải cứu đốt hơ bên mắt lành độ vài phút, mắt có bệnh cứ từ từ nhắm lại. Mỗi ngày hơ vài lần, mắt nhắm lại dần dần.
b. Lấy tay hoặc lăn đôi nhỏ (trong bộ dụng cụ lăn, day huyệt) lăn chéo từ mép bị méo lên phía đỉnh tai. Ngày lăn nhiều lần, mỗi lần lăn độ vài phút. Chẳng bao lâu mép sẽ được kéo lên cân bằng với mép lành.
29. Mắt không di động được
Chỉ cần gõ vài chục lần vào huyệt nằm ở phía trước và dưới bình tai, mắt sẽ chuyển động bình thường. Huyệt này nằm ở ngay chỗ lõm sát bình tai, khi há miệng là sờ thấy ngay. Đây là huyệt số 0 của diện chẩn và đồng thời cũng là huyệt Thính hội của Đông y.
30. Đắng miệng
Dùng ngón tay trỏ gõ mạnh vào huyệt lõm kề sát bên dưới môi dưới (huyệt 235) độ vài chục cái, miệng hết đắng liền!
31. Hàm mặt đau cứng (Thần kinh số 5)
Lấy điếu ngải cứu hơ mặt ngoài ngón tay cái (cùng bên đau) từ ngón đến giáp cổ tay. Nhớ khi hơ bàn tay phải xòe ngửa ra. Chỉ cần hơ độ vài phút, hàm mặt đau cứng sẽ mềm dần và trở lại bình thường.
32. Hắt hơi liên tục
Sẽ hết ngay trong 1 phút nếu biết lấy ngải cứu hơ dọc từ giữa trán (huyệt 103) thẳng xuống đến giữa đôi lông mày (huyệt 26).
33. Ho khan lâu ngày
Lấy ngải cứu hơ hai bên sườn mũi, hai bên mang tai (từ đỉnh tai xuống đến dái tai), cổ tay trong (của bàn tay trái đã nắm lại) và trực tiếp cổ họng.
34. Hóc (hột trái cây, xương)
Bấm hoặc gõ vào huyệt sát đầu nhân trung (huyệt 19) nhiều lần.
35. Các khớp ngón tay khó co duỗi
Lấy ngải cứu hơ đầu xương các đốt ngón tay rồi lăn, vê các đốt đó nhiều lần.
36. Mắt quầng thâm
Lấy ngải cứu hơ trực tiếp vào mắt, quầng thâm sẽ tan dần.
37. Buồn ngủ nhíu mắt lại
Vò hai tai một lúc là tỉnh ngủ liền.
38. Nhảy mũi
Lấy ngón tay trỏ cào từ cửa lỗ mũi xuống đến môi vài chục cái là hết nhảy mũi!
40. Quai bị
Bấm huyệt ngay sát dái tai bên sưng (huyệt 14) rồi hơ dái tai đối xứng độ vài phút. Ngày làm nhiều lần, quai bị tiêu rất nhanh.
41. Nhức răng
Hơ ngải cứu quanh vùng má bên đau độ 1 phút, răng hết nhức liền.
42. Mắt đỏ
Gạch đầu gan bàn tay dưới 3 ngón tay giữa độ vài phút, mắt đỏ hết rất nhanh. Nhớ mắt đỏ bên nào, gạch bàn tay cùng bên.
43. Mắt nhức
Hãy dùng đầu ngón tay trỏ cào đỉnh tai (huyệt 16) bên mắt nhức độ một lúc, mắt hết nhức liền.
44. Mắt nháy (giật)
Dùng đầu ngón tay trỏ cào vào phần dưới (huyệt 179) của đầu lông mày bên mắt bị nháy một lúc, mắt sẽ hết giật.
45. Tê lưỡi, cứng lưỡi
a- Hơ ngải cứu xong rồi vê ngón tay cái bàn tay trái một lúc, lưỡi hết tê.
b- Gõ vào huyệt sát trên dái tai độ 1 phút, hết cứng lưỡi.
46. Khan tiếng
a- Chà xát vùng gáy cho nóng lên độ vài phút là hết.
b- Dùng ngón tay trỏ gõ mạnh vào vùng trước dái tai nhiều lần
Chanh chống ung thư mạnh gấp 10.000 lần so với hóa trị
Không chỉ có khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư mà chanh – một loại quả hết sức quen thuộc còn có nhiều tác động tích cực về mặt sức khỏe khác.
Không đơn giản chỉ là một loại quả gia vị hay thường pha làm nước giải khát, chanh còn được biết đến như một cách phòng chống ung thư, tăng cường trí nhớ, chống loãng xương… cực kỳ hiệu quả.
Khả năng chống ung thư của nước chanh mạnh gấp 10.000 lần so với hóa trị. Chanh chỉ giết tế bào ung thư. Cắt 2-3 lát chanh mỏng cho vào cốc, thêm nước nóng, nó sẽ biến thành nước có tính kiềm. Uống hàng ngày đối với bất kỳ ai đều tốt.
Chanh được chứng minh là có khả năng bổ trợ khi chữa các chứng bệnh tương tự, tốt hơn vạn lần so với Doxorubicin thường được thế giới ứng dụng trong hóa trị ung thư. Chanh có khả năng giảm sự sinh trưởng các tế bào ung thư. Ngạc nhiên hơn, dùng chanh để áp dụng cho việc trị liệu các bệnh ưng thư nhưng chanh chỉ có thể phá các tế bào ung thư ác tính chứ không hề ảnh hưởng đến các tế bào ung thư lành tính.
Chanh là cách phòng chống ung thư không thể tuyệt vời hơn
Tăng cường trí nhớ
Theo nghiên cứu mới nhất của Mỹ cho thấy hàm lượng Vitamin C và Vitamin E có trong chanh đạt đến tiêu chuẩn cân bằng, có hỗ trợ cho việc tăng cường trí nhớ, nâng cao khả năng linh hoạt của tư duy phản ứng, và đã trở thành đồ uống tham khảo của người hiện đại trong việc tăng cường trí nhớ.
Trong chanh có chứa Vitamin C tan trong nước có chức năng chống oxy hóa, do đó mỗi ngày một cốc nước chanh sẽ có lợi cho việc tăng cường trí nhớ, mà lại không hề có tác dụng phụ nào cho cơ thể, là đố uống sức khỏe rất dễ tìm kiếm được trong cuộc sống hàng ngày.
Cải thiện loãng xương
Citric acid có trong chanh có thể giúp cơ thể tăng khả năng hấp thu canxi, tăng cường mật độ xương, đề phòng loãng xương. Thiếu canxi là một trong những nguyên nhân dẫn đến loãng xương, mà bước đầu tiên để đề phòng loãng xương là bắt đầu cải thiện từ ăn uống hàng ngày, đó chính là thường xuyên ăn các loại quả có chứa nhiều Vitamin C như chanh, bưởi.
Citric acid của chanh thúc đẩy khả năng hấp thụ canxi
Dựa trên việc chanh rất tốt trong việc hỗ trợ tuần hoàn máu và hấp thu canxi, ngoài ra citric acid trong chanh có hiệu quả chống lại vi khuẩn viêm đường ruột, vi khuẩn salmonella, vi khuẩn xuất huyết đường ruột, có thể giảm thiểu việc sản sinh ra lactic acid khi cơ thể mệt mỏi.
Citric acid và polyphenol có trong nước chanh đều có thể dự phòng chứng tắc tĩnh mạch sâu, điều chỉnh tuần hoàn máu, giảm nguy cơ máu đông cục. Khi huyết áp quá cao, nước chanh có thể điều chỉnh huyết áp, có thể chống trầm cảm, chống căng thẳng và các trở ngại về chức năng thần kinh, theo báo Dân Trí.
Hỗ trợ chữa lành các vết thương
Axit ascorbic (hay sinh tố C, vitamin C) được tìm thấy trong chanh giúp thúc đẩy quá trình làm lành vết thương và là chất dinh dưỡng cần thiết trong việc duy trì các mô liên kết, giúp xương và sụn chắc khỏe. Vitamin C có tác dụng chống viêm, đây là dưỡng chất cần thiết trong việc duy trì sức khỏe và hồi phục các tổn thương trên cơ thể.
Mỗi ngày một ly nước chanh để bệnh tật không “ghé thăm”
Tăng cường năng lượng
Nước chanh cung cấp cho cơ thể một nguồn năng lượng khi nó đi vào đường tiêu hóa, đồng thời giúp làm giảm cảm giác lo âu, trầm cảm. Ngay cả hương thơm của loại trái cây này cũng có tác dụng làm dịu hệ thần kinh, theo báo Giáo dụcViệt Nam.
Bắt đầu buổi sáng với một ly nước chanh nóng sẽ có tác dụng kích thích tiêu hóa cho cả ngày. Hơn nữa uống vào thời điểm này là rất có lợi vì chanh giúp làm sạch cơ thể, nhất là đào thải những độc tố xuất hiện trong đường tiêu hóa vào ban đêm.
Ngoài ra, chanh còn có khả năng khắc phục chứng ợ nóng, táo bón, phòng tránh sâu răng hoặc những tổn thương ở vùng nướu, trị viêm họng, khống chế chứng cao huyết áp và hạ sốt. Dẫu chanh có nhiều tác dụng với sức khỏe nhưng cũng không nên tieu thụ quá nhiều. Theo cácchuyên gia, nếu cơ thể đang khỏe mạnh và cân nặng bình thường thì nên uống nửa quả chanh pha với nước, chia hai lần mỗi ngày. Nếu thừa cân, có thể uống một cốc nước chanh (một quả chanh) mỗi ngày.
Lá lốt không chỉ là vị thuốc dân gian mà còn là món rau và gia vị ngon miệng. Mâm cơm có bát canh Lá lốt nấu với thịt nạc băm nhỏ hoặc nấu với tôm khô đã kích thích dịch vị, ăn xong thấy người khoan khoái dễ chịu Lá lốt còn là một […]
Lá lốt không chỉ là vị thuốc dân gian mà còn là món rau và gia vị ngon miệng.
Mâm cơm có bát canh Lá lốt nấu với thịt nạc băm nhỏ hoặc nấu với tôm khô đã kích thích dịch vị, ăn xong thấy người khoan khoái dễ chịu
Lá lốt còn là một vị thuốc chữa bệnh mà nhân dân gọi là bệnh Phong thấp.
Những năm 1999 – 2000, tôi thường bị sưng, đau khớp gối và bả vai, nhất là khi thời tiết có biến động bất thường như giông bão, áp thấp hoặc lúc chuyển mùa.
Tôi đi bệnh viện khám, bác sỹ cho chụp điện rồi kết luận là bị viêm khớp, cấp cho các loại thuốc uống như Diclofenac, Sinh tố C, Sinh tố B6, Actisô…
Uống hết thuốc, gối tôi bớt sưng đau nhưng một thời gian sau, nó lại tham gia “dự báo thời tiết” như trước.
Đôi ba người khuyên tôi cần phải dùng thuốc đặc trị của Mỹ, Pháp…
Thuốc đặc trị thì đắt tiền, tôi đã nghỉ hưu, bảo hiểm y tế không thanh toán nên tôi nghĩ phải tìm về nguồn thuốc là cây, cỏ, hoa, lá mà nhân dân ta thường dùng, có khi lại hiệu nghiệm hơn thuốc Tây cũng nên.
Rất may, tôi được người mách dùng cây Lá lốt.
Lúc đầu tôi mua lá tươi, nấu canh ăn hàng ngày, canh hơi ngai ngái nhưng thấy thích vì khớp dễ chịu.
May hơn nữa, tôi được bà thông gia vào thăm con ở Lâm Đồng mang ra biếu một bịch to cả rễ, cây và Lá lốt mà bà đã phơi khô, sao vàng, tôi chỉ việc đun uống như uống nước trà hàng ngày.
Uống được hơn 20 ngày tôi thấy khớp bớt sưng, vận động, đi lại thoải mái nên rất phấn khởi.
Cho đến nay (năm 2004) tôi chưa thấy đau trở lại, hàng ngày đi tập thể dục, đi bộ bình thường và chẳng để ý đến nó nữa.
Tìm hiểu thêm, tôi biết được một số người nữa cũng chữa phong thấp như tôi đều đã khỏi.
Hai năm về trước, ông Võ Đức Tiến (ở C12 tổ 91 phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội), cũng đau khớp vai trái, dùng cây Lá lốt cả rễ, thân, lá phơi khô sao vàng sắc uống cũng đã khỏi bệnh hoàn toàn.
Sách của GS. Đỗ Tất Lợi “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” cũng đề cập đến cây Lá lốt, thành phần hoá học: có tinh dầu, hoạt chất khác chưa rõ.
Nhân dân dùng chữa chân, tay đau nhức; nếu kết hợp với rễ cây như: rễ Bưởi bung, rễ cây Vòi voi, rễ cây Cỏ xước, tất cả thái nhỏ sao vàng, mỗi vị bằng nhau 15g khô, sắc với 600ml nước cô còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày.
Lá lốt là vị thuốc dễ kiếm, ra bất cứ chợ nào cũng mua được Lá lốt; ở nông thôn càng dễ kiếm hơn vì nó mọc hoang khắp vườn.
Nếu ai bị chứng bệnh như đã nói trên thì cứ thử chữa bằng cây Lá lốt xem sao! Tôi chắc rằng bạn sẽ khỏi bệnh.
Đây là bài thuốc dân gian quý báu, rất rẻ tiền, thậm chí không mất tiền, lại không có phản ứng phụ.
Điều cần lưu ý khi dùng cây Lá lốt để chữa bệnh Phong thấp là cần kiêng kỵ món rau Nhút (rau Rút hay nấu với canh Cua Khoai sọ).
CÁCH CHỮA CHẢY MŨI, NGHẸT MŨI, HO HẾT NHANH KHÔNG CẦN THUỐC
Mưa nắng là chuyện thường tình của trời đất, cũng như cảm mạo, ho, sổ mũi là chuyện thường tình của con người. Nhất là vào mùa mưa sắp đến này, sự thay đổi bất thường của thời tiết chắc hẳn sẽ gây khó dễ cho rất nhiều bạn vì nắng không ưa mưa không chịu. Đôi khi vài viên thuốc tây không thể cắt đứt cơn ho ngay, hay mũi nghẹt, mũi chảy nước cũng không chịu dừng hẳn dù chúng ta đã dùng thuốc cả ngày.
Bạn nghĩ gì khi cái khó chịu của cơn ho, hay nghẹt mũi, sổ mũi không thể nhập vào bạn quá 10 phút. Ở trang này Cherry xin giới thiệu với các bạn vài động tác đơn giản có thể giúp các bạn cắt đứt nhanh cơn ho, sổ mũi, chãy mũi do cảm lạnh bất thường.
CHỮA HO:
Hai cổ tay giống như hai hầu họng. Bạn cố gắng dùng ngón cái của bàn tay phải xoa mạnh vào cổ tay trái trong 3 phút, rồi chuyển qua dùng ngón cái tay trái xoa mạnh vào cổ tay phải 3 phút cho nóng lên, sau đó thoa chút dầu nóng, có người chỉ cần thế là đã hết ho. (Xem hình 1)
Nhưng cũng có người ho còn vướng đàm, hoặc đau họng khi ho, nên cần thêm chút động tác sau đây:
Ma sát vùng phản chiếu của họng, vùng này nằm trong phạm vi vòng tròn màu hồng (xem hình 2). Bạn có thể dùng cây lăn, dò huyệt của thầy Bùi Quốc Châu (có bán ở các tiệm dụng cụ y tế), dùng đầu sừng lăn nhiều vào vùng màu hồng này, tuy nhiên nếu không có dụng cụ lăn thì với cán muỗng càfé, hay cái chìa khóa xe của bạn cũng có thể cào vào chổ màu hồng cho đến khi đàm hết vướng víu và hết đau họng. Càng tác động vào vùng này nó sẽ làm thông cổ cho bạn.
CHỮA NGHẸT MŨI:
Bạn dùng 2 ngón tay, ngón giữa và ngón trỏ để song song đặt từ đầu chân tóc kéo chạm mạnh vào da trán thẳng xuống hai đầu mày. Nhớ chỉ kéo theo chiều mũi tên như trong hình, kéo khoảng 40 lần cho trán nóng lên là mũi thông ngay.
(xem hình 3) Nếu vài giờ sau có bị lại bạn cũng làm như vậy nhé!!
Bạn cũng có thể dùng cách 2 như sau:
Dùng ngón cái tay mặt ấn mạnh vào huyệt hợp cốc trên bàn tay trái, ấn và đẩy khoảng 2 phút sau đó chuyển sang tay trái cũng làm như vậy là mũi thông ngay, hết nghẽn nghẹt (xem hình 4 và 5)
CHỮA CHẢY MŨI
Cũng giống như cách chữa nghẹt mũi tuy nhiên lần này bạn dùng 2 ngón giữa và trỏ kéo ngược từ đầu mày lên chân tóc. Nhớ kéo theo chiều mũi tên như trong hình. Kéo khoảng 40 lần, kéo ma sát vào da trán cho nóng là nước mũi ngưng chảy ngay (xem hình 6) Nếu vài giờ sau có bị lại bạn cũng làm như vậy nhé!!
Bạn cũng có thể dùng cách hai:
Dùng ngón tay cái ấn mạnh vào huyệt Ấn đường giữa hai đầu mày, ấn và đẩy mạnh khoảng 3 phút. Sau đó thoa chút dầu vào huyệt này. Tiếp tục dùng 2 ngón trỏ ấn mạnh vào hai huyệt Nghinh Hương ở hai bên cánh mũi, ấn và đẩy mạnh 2 huyệt này cũng 3 phút rồi thoa dầu vào hai huyệt này, nước mũi sẽ ngưng chảy ngay. (xem hình 7)
Cherry chúc các bạn thành công khi có thể tự chữa cho mình mà không dùng thuốc
Tỏi là gia vị đầu tay, nhân dân ta ai cũng biết; là vị thuốc y học dân tộc lương y nào cũng biết. Tuy nhiên, rượu tỏi có xuất xứ Ai Cập thì có thể có nhiều người chưa biết.
Y học cổ truyền đã dùng tỏi vào điều trị nhiều loại bệnh thu được hiệu quả tốt. Trong ngôi mộ cổ xưa ở Ai Cập, người ta đã tìm thấy đơn thuốc làm từ tỏi. Còn ở Trung Quốc, ngay từ năm 2600 trước Công nguyên đã có những bài thuốc bào chế từ tỏi.
Đã từ lâu và hiện nay thì tỏi được xem là sát thủ một của bệnh ung thư đối với người dân Trung Quốc.( tỏi phải được sắt lát mòng hoặc bầm nhỏ, nghiền nhỏ rồi rãi mỏng ra để dễ tiếp xúc với không khí từ 15 đến 30 phút, sau đó ngâm rượu sau tuần là dùng được.
Tuy nhiên, trong một nghiên cứu của các nhà khoa học Nga, thì ngoài tác dụng nêu trên, rượu tỏi còn có thể được sử dụng như thuốc nhằm chữa trị các vết rắn cắn, bệnh truyền nhiễm và bệnh dịch trong đó có dịch cúm. Nhóm các nhà khoa học Nga đã tìm thấy trong thành phần của tỏi có chứa một hàm lượng lớn chất allicin – một chất có tác dụng kháng khuẩn cao cho cơ thể.. Ở nước Nga thì từ thế kỷ 19, người ta đã coi cây tỏi như một loài thảo dược…
Tỏi tên khoa học Allium sativum L. thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Trong củ tỏi có chứa 0,10 – 0,36% tinh dầu, trong đó hơn 90% chứa các hợp chất lưu huỳnh (S). Thành phần chủ yếu của tỏi là chất alicin có mùi đặc trưng tỏi.
Nhưng trong tỏi tươi không có alicin ngay, mà có chất aliin (một loại acid amin) – chất này chịu tác động của enzym alinase cũng có trong củ tỏi khi giã giập mới cho alicin.
Ngoài ra, củ tỏi còn chứa nhiều vitamin và chất khoáng… đặc biệt là selen. Y học phương Đông ghi về tỏi như sau: vị cay, tính ôn, hơi có độc, vào 2 kinh can và vị, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát khuẩn, trừ phong, thông khiếu, tiêu nhọt, hạch ở cổ, tiêu đờm…
Có thể dùng tỏi với những cách khác nhau, nhưng độc đáo là Ai Cập hầu như nhà nào cũng dùng “rượu tỏi”.
Vào những năm 1960 – 1970, Tổ chức WHO (cơ quan theo dõi sức khoẻ và bệnh tật thế giới) của LHQ phát hiện thấy Ai Cập là một nước nghèo, khí hậu sa mạc khắc nghiệt nhưng sức khoẻ của người dân lại vào loại tốt, ít bệnh tật, tuổi thọ tương đối cao. WHO đặt vấn đề với Chính phủ Nesser xin cử một số đoàn của WHO vào Ai Cập nghiên cứu xem tại sao lạ có hiệu tượng lạ như thế mà y tế Ai Cập chưa tìm ra lời giải.
Vào những năm 1960 – 1970, WHO (cơ quan theo dõi sức khoẻ và bệnh tật thế giới) của LHQ phát hiện thấy Ai Cập là một nước nghèo, khí hậu sa mạc khắc nghiệt nhưng sức khoẻ của người dân lại vào loại tốt, ít bệnh tật, tuổi thọ tương đối cao. WHO đặt vấn đề với Chính phủ Nesser xin cử một số đoàn của WHO vào Ai Cập nghiên cứu xem tại sao lạ có hiệu tượng lạ như thế mà y tế Ai Cập chưa tìm ra lời giải.
Được Tổng thống Nasser đồng ý, WHO huy động nhiều chuyên gia y tế vào Ai Cập, chia nhau xuống các vùng nông thôn, các vùng có khí hậu khắc nghiệt để nghiên cứu và thu thập tài liệu.
Cuối cùng, các nhà nghiên cứu (đông nhất là Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản) đã tìm thấy ở Ai Cập nhà nào cũng có một lọ rượu ngâm tỏi để uống. Nhân dân Ai Cập nói từ bao nhiêu thế kỷ nay, người dân nước họ vẫn làm như thế.
Ở mỗi vùng, tỏi được ngâm theo những công thức khác nhau, chuyên gia các nước đem những công thức đó về nước mình nghiên cứu, phân tích, kết luận rồi thông qua một bản báo cáo gửi WHO tổng kết và hội thảo về vấn đề này. Đến năm 1980 họ thông báo:
Tới năm 1983 các nhà Y học Nhật lại thông báo bổ sung thêm hai nhóm bệnh nữa là:
5. Trĩ nội và trĩ ngoại.
6. Đái tháo đường (tiểu đường).
Và nhận xét đây là loại thuốc có hiệu quả chữa bệnh cao và không gây phản ứng phụ.
Cách bào chế rượu tỏi và uống:
Tỏi khô còn mới (đã bóc bỏ vỏ) 40g thái nhỏ, cho vào chai ngâm với 100ml rượu trắng 40 – 45 độ, thỉnh thoảng lại lắc chai rượu, dần dần rượu chuyển từ màu trắng sang màu vàng, đến ngày thứ 10 thì chuyển sang màu nghệ và uống được.
Mỗi ngày dùng 2 lần, sáng uống 40 giọt (tương đương 1 thìa cà phê) trước khi ăn, tối uống 40 giọt trước khi ngủ. Uống khoảng 20 ngày thì hết, bởi vậy cứ sau 10 ngày lại ngâm tiếp để ngày nào cũng có rượu tỏi dùng, uống liên tục suốt đời.
Với một lượng rượu rất nhỏ như thế, người kiêng rượu hoặc không uống được rượu vẫn dùng được.
Ở nước ta cũng đã có nhiều người áp dụng bài thuốc rượu tỏi này, nhưng liều lượng thì linh hoạt (thậm chí có người uống tới 3 thìa cà phê rượu tỏi/lần), nhưng không thấy phản ứng phụ. Các thông tin phản hồi đều cho biết rượu tỏi đã điều trị có hiệu quả nhiều bệnh mạn tính khác nhau, có nhiều người khỏi bệnh. Có thể nói, rượu tỏi là vị thuốc tuyệt vời, trời ban cho người nghèo…
Sau này, tỏi lại được nhiều nhà khoa học ở nhiều nước nghiên cứu phát hiện nhiều đặc tính trị liệu quý của nó. Nổi bật là tác dụng kháng khuẩn, hoạt tính kháng nấm cũng đã được chứng minh – nghiên cứu dược lý thực nghiệm thấy tỏi có phổ kháng khuẩn và kháng nấm rộng. Tác dụng kháng virut cũng đã được nói đến.
Với hệ tim mạch, những nghiên cứu mới cho thấy tỏi có tác dụng làm giảm Triglycerid và giảm hàm lượngCholesterol xấu (LDL), nhưng lại tăng cholesterol tốt (HDL) do đó làm giảm các rối loạn chuyển hóa mỡ trong máu.
Tỏi còn có khả năng giúp cơ thể phòng ngừa ung thư, đó là điều nhiều nhà khoa học đã thừa nhận, song có điều trị được ung thư khi nó đã phát triển thành khối u hay không thì chưa chứng minh hết được, còn cần nghiên cứu tiếp.
Ăn tỏi đã đập dập làm giảm nguy cơ ung thư phổi.
Ăn tỏi đã đập dập và ăn sống 2 lần/tuần có thể giúp giảm khoảng một nửa nguy cơ bị ung thư phổi.
Nghiên cứu được thực hiện tại Trung Quốc cho thấy những ai thường ăn tỏi sống giảm được 44% nguy cơ bị ung thư phổi.
Tỷ lệ này ở những người có hút thuốc lá là 30%. Để có kết luận này, các nhà khoa học tại Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh tỉnh Giang Tô so sánh 1.424 bệnh nhân ung thư phổi với 4.500 người khỏe mạnh, theo tờ Daily Mail.
Hiện chưa rõ liệu tỏi nấu chín sẽ có tác dụng tương tự hay không. Những nghiên cứu trước đây cho thấy thành phần chính trong tỏi là allicin, được sản sinh khi tỏi được nghiền nát hoặc thái nhỏ.
Chất allicin được cho là giúp giảm viêm sưng trong cơ thể và hoạt động như một chất chống ô xy hóa, làm giảm tổn hại do các gốc tự do gây ra cho các tế bào của cơ thể. Còn theo một nghiên cứu của Đại học Nam Úc, ăn tỏi có thể cắt giảm gần 1/3 nguy cơ bị các khối u ruột.
Tỏi có nhiều hữu ích, đó là điều rõ ràng. Tuy nhiên, đã là thuốc thì phải tính đến liều lượng sử dụng thích hợp (thuốc dùng liều quá cao cũng có hại) và các phản ứng phụ, không nên lạm dụng. Nếu dùng tỏi quá nhiều có thể gây hơi thở hôi, rối loạn dạ dày – ruột, ức chế tuyến giáp…
Bởi vậy, chỉ nên áp dụng bài thuốc rượu tỏi với liều lượng mà WHO đã dày công nghiên cứu, phổ biến. Với liều lượng ấy là có tác dụng phòng và chữa được nhiều bệnh. Coi trọng cách dùng an toàn là có thể dùng hàng ngày một cách lâu dài mà không lo nó gây ra những tác dụng xấu ngoài ý muốn.
Từ 40 tuổi trở đi, các bộ phận trong cơ thể con người bắt đầu thoái hoá làm cho các chức năng hấp thụ chất béo (lipit), chất đường (glucose) bị suy giảm. Các chất đó không hấp thụ hết qua đường tiêu hoá, phần thừa không thải ra ngoài được, dần dần lắng đọng trong thành vách mạch máu, làm xơ cứng động mạch và xơ cứng một số bộ phận khác, lâu ngày gây ra một số bệnh như trên.
Trong tỏi có hai chất quan trọng:
1. Phitocid là loại kháng sinh thực vật có tác dụng diệt một số vi khuẩn.
2. Hoạt tính màu vàng, giúp làm tiêu chất béo dưới dạng cholesterol bám vào thành vách mạch máu làm cho đường đi của máu từ tim ra và về tim bị tắc nghẽn.
Chính nhờ 2 chất đó mà tỏi có tác dụng chữa bệnh cao huyết áp.
Công thức:
Tỏi khô (bí lắm mới dùng tỏi tươi): 40g (theo kinh nghiệm thì mua 50g, sau khi bóc vỏ còn 40g), Rượu trắng 45 độ ( tốt nhất là rượu lúa mới): 100ml
Tỏi bóc vỏ, thái nhỏ và cho vào sạch sau đó đổ rượu vào ngâm. Ngâm 10 ngày thỉnh thoảng lại lắc lọ. Mới đầu thì có màu trắng. Sau dần chuyển sang màu vàng đến ngày thứ 10 thì chuyển sang màu nghệ.
Cách dùng: 40 giọt compteur gouttes ( tương đương với một muỗng cà phê nhỏ)
Sáng 40 giọt trước khi ăn
Tối 40 giọt trước khi ngủ.
Uống liên tục cả đời. Người phải kiêng rượu hoặc không uống được rượu vẫn uống được vì mỗi lần chỉ uống được 40 giọt – một lượng rượu không đáng kể.
Cứ sau 10 ngày phải ngâm một lần để gối đầu cho những lần dùng kế tiếp.
Bệnh nhân bị ung thư dạ dày, uống 10 – 15 giọt rượu tỏi
Bản thân tỏi cũng có chứa rất nhiều các phân tử tự do, nhờ đó giúp bảo vệ cơ thể khỏi sự viêm nhiễm. GS. Mirelman – người đứng đầu nhóm nghiên cứu cho biết: việc cho thêm một lượng 10 – 15g tỏi vào chế độ ăn hằng ngày đối với bệnh nhân tăng huyết áp sẽ giúp giảm huyết áp.
Ngoài ra ở những bệnh nhân bị ung thư dạ dày, uống 10 – 15 giọt rượu tỏi có thể giúp hạn chế quá trình phát triển của các khối u ác tính. Với người khỏe mạnh, thì loại rượu này sẽ có tác dụng phòng ngừa ung thư nhờ vào các thành phần như selen, nguyên tố germani, kẽm…
Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy: trong tỏi có chứa nhiều tinh dầu, glycoside allicin, ngoài ra còn có các vitamin B, C, carbonhydrat, kẽm, canxi, clo, phospho, iod, các lysozym và các nguyên tố vi lượng khác có tác dụng rất tốt đối với việc tăng cường hệ miễn dịch và bảo vệ cơ thể.
Theo Caythuocquy.info.vn
Công thức anh Vũ Văn Tam Lang phương thức của cộng đồng hotieubenvung.com
Công thức 1: (Dùng cho con người)
1,2 Kg Gừng
1,2 Kg Tỏi
0,5 Lít mật ong
5 lít rượu
Ngâm uống 1 ngày 1 ly sẽ tốt cho sức khỏe vô cùng.
Ngoài ra tỏi còn dùng để chế ra thuốc BVTV ứng dụng cho nông nghiệp.
Công thức 2: (Dùng cho cây hồ tiêu)
1 Kg tỏi xay nhuyễn. Để tiếp xúc không khí 15-30 phút
1 lít etanol ( cồn thơm 1 lít + 0,5 lít nước có thể thay bằng rượu trắng– chừng 40 độ) ngâm chung.
Chiết lấy nước cốt.
Cách Dùng làm thuốc bảo vệ thực vật.
Liều dùng 0,5 lít/ phuy 220 lít nước. Có thể kết hợp với phân bón sinh học.