RSS

Tag Archives: Trần Kim Lan

Đãng trí và…

Đãng trí và…

 

1-Rơi chia khóa bên trong

 

  Đêm hôm đó, cách đây hơn hai mươi năm, đó là ngày thi đấu bóng quốc tế, được tổ chức tại nước Ý năm 1990. Cả Hà Nội dường như  không ngủ vì ham mê đá bóng quốc tế… vi mê ca khúc chào mừng Word cup thế giới do hai ca sĩ  Gianna Nannini và Edoardo Bennato nổi tiếng của Ý trình bày, tôi cũng thức xem đá bóng, dù trước đó, tôi ít khi thức trọn buổi xem đá bóng.

Tôi cần phải giải quyết “việc riêng” và thế là nên chuyện. Tôi làm rơi chìa khóa bên trong. Tim tôi giật thót. Nhà lại làm khóa cửa bên trong. Đang đêm, tôi phải mượn xe đạp hàng xóm, đến nhà cậu em để lấy chìa khóa, mở cửa. Đêm khuya, thời tiết nóng nực, ve kêu râm ran trên đuờng phố, tôi chỉ mặc bộ quần áo mặc ở nhà mùa hè, rất mát mẻ, giống như bộ quần áo may ô của nam giới vậy. Đó là bộ quần áo mặc ở nhà, tôi tự may lấy, gấu áo và gấu quần có xếp nếp gấp, trông cũng diêm dúa lắm, chỉ tội không thích hợp để đi ra đường… tôi hối hả đạp xe tới nhà cậu em, giữa tiếng reo hò vang trời của những người xem đá bóng và tiếng ca hát của hai ca sĩ người Ý hay đến mê hồn văng vẳng bên tai… Đường phố vắng tanh, không người qua lại, chỉ mình tôi đạp xe vun vút… vì ai cũng đang mải mê xem đá bóng…

 

 Cũng may, tôi gửi chia khóa cậu em, phòng khi đãng trí … Nếu không thì…

 

2-Sập cửa, chia khóa bên trong.

 

Có tiếng chuông. Tôi mở cửa. Đó là vợ chồng người quản lý nhà.

 

 Hai người muốn mời tôi qua nhà nói chuyện cho vui. Tôi chưa kịp trả lời thì…. cửa đóng sập một tiếng. Vì tôi bước chân ra khỏi cánh cửa, lúc đó đang mở toang các cửa sổ, lúc này, gió thổi rất mạnh…

 

Tôi giật mình hoảng hốt. Chìa khóa bên trong. Tôi hốt hoảng kêu lên:

– Thôi chết rồi! Làm sao bây giờ?

Vợ chồng người quản lý nhà, cười vang và vội trấn an:

– Tôi có chìa khóa!

Và chỉ 5 phút sau, người quản lý nhà mở cửa cho tôi vào nhà. Tôi mới  biết một điều là, người quản lý nhà có chìa khóa cho cả tòa nhà và dấu ở một nơi, phòng khi có sự cố…

 

Việc đó xảy ra năm 2008. Thật là hú vía! May sao may thế!

 

3-Quên chìa khóa ở thùng thư

 

Hôm đó là ngày 29.4.2013.

 

Tôi hôm trước, tôi thức rất khuya, vì xem phim. Bộ phim đang đến lúc kết thúc, nên muốn xem cho xong. Hôm sau, lại thức dậy sớm.

Ăn sáng xong, tôi đi siêu thị mua thức ăn. Vừa đi dạo, vừa mua hàng xong, thi tôi trở về nhà liền.

Gần về tới nhà, tôi lấy chìa khóa trong túi, thì… không thấy chùm chìa khóa đâu! Tôi hốt hoảng lục tất cả mọi chỗ trong túi, cũng không thấy. Thường thì tôi để chùm chìa khóa riêng một nơi trong túi và luôn ở vị trí đó.

Tôi chợt nhớ ra, chắc chỉ quên chìa khóa ở thùng thư thôi. Vì trước khi đi ra ngoài, tôi thường  mở thùng thư xem có thư không. Có thư, tôi xem thư và cứ thế đi, không khóa thùng thư và không lấy chùm chìa khóa.

Nhớ ra điều đó, tôi hốt hoảng đi như bay về nhà, vì chỉ còn một đoạn ngắn là tới nhà. Tới nơi, ngó vội vào nhà, thì thấy thùng thư mở, vẫn còn lủng lẳng chùm chìa khóa! Mừng hơn bắt được kim cương! Tôi nhờ hàng xóm mở cửa và vào nhà!

May qúa, tất cả vẫn y nguyên.

 

Qua sự việc này, tôi mới lo làm thêm chìa khóa và cất dấu riêng ở một nơi… Trước đó thì tôi vẫn có chìa riêng, để ở một nơi khác. Nhưng chủ nhà mới thay chìa khóa cửa, nên chưa làm chìa khóa khác.

 

Tôi tự hỏi, không biết nếu quên chùm chìa khóa ở Việt Nam trong khoảng gần 2 tiếng thì chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ?

 

4-Thoát gặp nạn.

 

Ngày đó, cách đây gần bốn mươi năm tôi đến trường đại học tổng hợp văn, định xin học hàm thụ…

Loanh quanh một hồi tìm kiếm thì tôi cũng thấy tên cổng trường hiện ra trước mắt…

 

Tôi mừng qúa, lao về phía đường tầu. Bỗng khựng lại vì nghe tiếng hét:

– Cô kia, định tự tử à?

 

Tiếng hét chát chúa dội vào tai tôi, khiến tôi bừng tỉnh, rụt chân đang định bước trên đường ray. Đoàn  tầu vùn vụt lao qua trước mặt tôi. Chỉ một tích tắc thôi, chắc tôi không còn ở trên đời để tường thuật lại sự việc này. Tôi nhìn sang bên đường, cúi đầu cảm tạ người đàn bà đã cứu tôi thoát chết!

 

May thật là may!

 

5-Lại thoát gặp nạn

 

Hôm đó, cách đây hơn mười năm. đang đi trên đường về nhà, mải suy tư, ngắm trời đất cây cỏ…

 

Tôi vô tư bước sang đường, chẳng nhìn thấy đèn đỏ hay nghe thấy gì hết… Bỗng có tiếng còi ô tô và tiếng hét chói tai:

– Muốn chết à?

 

Tôi giật bắn mình và thấy một chiết xe tải vượt qua trước mặt. Người lái xe lầu bầu, ngoái nhìn tôi với ánh mắt ngạc nhiên, giận dữ.

 

Thoát nạn. Tôi cười cảm ơn và nhủ thầm, sẽ không mơ mộng vẩn vơ khi đi đường nữa.

 

6-Quên lấy tiền

 

Cách đây mấy tháng, tôi rút tiền từ máy tự động.

 

Bỏ thẻ, bấm mật mã, bấm số tiền, lấy thẻ xong, tôi vô tư bỏ đi. Đi được 1 đoạn, tôi mới chợt nhớ, chưa lấy tiền.

Lúc đó, máy không có ai chờ lấy tiền cả.

 

May. Vì nhớ ta ngay, nếu không thì… chắc là sẽ… nhịn đói!

 

7-Lại quên lấy tiền

 

Lại đãng trí “bác học”. Cách đây hơn một tháng, tôi lại rút tiền từ máy tự động. Thực ra, tôi chỉ định kiểm tra tài khoản thế nào. Tiện thể rút tiền tiêu.

Cho mã số, bấm số tiền cần và lấy thẻ xong, tôi đi ngay vào nơi gửi thư, để gửi thư, không hề nhớ, mình đã rút tiền. Bỗng có tiếng người gọi giật giọng:

– Này chị ơi, tiền! Chưa lấy tiền!

 

Tôi giật mình quay lại, nhớ ra chưa lấy tiền. Đó là cô đứng kế bên chờ lấy tiền.

Tôi mỉm cười chào, cảm ơn.

Những ánh mắt vui cười của những người đứng bên cạnh chờ lấy tiền gửi cho tôi với đầy vẻ thông cảm và ngạc nhiên.

 

Đó là tất cả những lần “đãng trí” thật may mắn trong đời.

 

Tôi tự nhủ, sẽ không có lần nào đãng trí “bác học” kiểu như thế nữa. Không biết có còn xảy ra chuyện  gì tương tự nữa không? Nhưng có ai mà học được “chữ ngờ”?

 

10.5.2013/Trần Kim Lan

 
4 bình luận

Posted by trên 10.05.2013 in Truyện ngắn

 

Nhãn: ,

Trò chuyện với tác giả tiểu thuyết: “Thời của thánh thần“

Trò chuyện với tác giả tiểu thuyết: “Thời của thánh thần“ 

 Minh và  nhà văn Hoàng Minh Tường           Minh Tường là nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết viết về nông thôn được đông đảo bạn đọc mến mộ như Thủy hỏa đạo tặc ( Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1997), Đồng sau bão, Thời của Thánh thần …Đặc biệt, tiểu thuyết Thời của Thánh thần hơn một năm nay đã trở thành cuốn sách Việt Nam bán chạy nhất, được nhiều người tìm đọc nhất. Đầu tháng 7-2009 vừa qua, anh quyết định “thưởng” cho đứa con trai út của mình vừa thi đậu vào lớp 10 một chuyến du lịch Huế. Theo anh, Huế và Nha Trang là hai thành phố du lịch đẹp nhất , đáng đi thăm nhất ở miền Trung. Đã đi du lịch thì nên đến Huế vì Huế là trầm tích văn hóa nhiều tầng . Vô Huế, Hoàng Minh Tường thuê khách sạn, rồi mượn xe máy của nhà văn Nguyễn Quang Hà chở con đi  thăm lăng tẩm, chùa chiền Huế, về  tắm biển Thuận An, về  chợ quê Cầu ngói Thanh Toàn , đi thăm bạn bè văn chương  và thưởng thức những món ăn nổi tiếng Huế… Mấy ngày nắng nôi nóng bức thế mà bố con nhà văn cứ đi trên đường ngày hai buổi…Tôi phải tin nhắn, điện thoại mấy lần mới có dịp ngồi với anh vài tiếng đồng hồ ở Khách sạn Bến Ngự trò chuyện về chuyện hậu Thời của  Thánh thần (TCTT)


           – Chào anh Hoàng Minh Tường , Ngô Minh và nhiều người đọc ở  các “tỉnh lẻ” Huế và miền Trung một năm qua chỉ đọc TCTT qua Vietnam thuquan, thấy  cuốn tiểu thuyết rất hấp dẫn và rất nhân văn , nhưng lại  nghe lõm bõm rằng “nó” bị ” thu hồi”, bị phạt, sau đó lại được tha, được phát hành cho toàn dân đọc. Đã hơn năm rồi, mọi chuyện  chắc cũng đã  nguội rồi, đã công khai được rồi. Vậy xin anh cho biết cụ thể bị “thu hồi” như thế nào ?

           – Nhà văn Hoàng Minh Tường ( HMT) ( cười đỏ mặt): – Đúng là có lệnh ngưng phát hành của Bộ Văn hóa Truyền thông thật.  Tiểu thuyết TCTT  đứng tên Nhà xuất bản Hội Nhà văn, nhưng sau khi có  giấy phép thì do một tổ chức làm sách bỏ tiền ra in . Giữa tháng 8-2008, khi tôi đang cùng bạn bè đi tham gia cứu trợ lũ lụt ở Bát Sát, Lao Cai  thì nhà văn Nguyễn Khắc Trường, người chịu trách nhiệm bản thảo điện thoại : ” Ông về  Hà Nội gấp để xử lý sự cố, Bộ Văn hóa Truyền thông có lệnh ngưng phát hành  TCTT rồi ! Gay lắm.”.  – Tôi trả lời ông NK Trường : ” Nhưng mà sách đã phát hành hết rồi, bây giờ ” Bộ 4T”( tức Bộ Văn hóa Truyền thông mà anh em văn nghệ gọi vui là “Bộ 4T” ) ngưng thì biết làm thế nào? Sách có phạm tội gì không  ông ?”. Hỏi ra mới biết, Bộ 4T có công văn cho ngưng phát hành TCTT vì phát hành 2 ngày trước thời hạn nộp lưu chiểu . Theo luật định, sau khi nộp lưu chiểu 10 ngày mới được phát hành, đây mới 8 ngày đã bán lẻ rồi. Tôi về Hà Nội  thì thấy sách đã bán gần hết . Tôi cùng  anh em nhà xuất bản Hội Nhà văn đi hết các hiệu sách “thu hồi” được 87 cuốn. Sau đó một Hội đồng thẩm định của Hội Nhà văn được thành lập.  Các thành viên Hội đồng cho rằng tiểu thuyết TCTT  nói chung là tốt, không phạm vào “các điều cấm” , nhưng cũng còn có một số khiếm khuyết như phản ảnh  hơi thái  quá một số  vấn đề  “nhạy cảm”, có  biểu hiện về “sex”…Cuối cùng Hội đồng bỏ phiếu nhất trí cho phát hành bình thường, rồi Cục xuất bản phạt 5 triệu đồng do vi phạm quy chế phát hành   Tôi và ông Nguyễn Khắc Trường  thở phào nhẹ nhõm. Thế là đã tai qua nạn khỏi, sách được đến tay bạn đọc đông đảo . Nhưng cũng có người bảo, phạt “vi cảnh” 5 triệu chỉ là  cái cớ thôi, thật ra là do nội dung “quá nóng”, các nhà quản lý muốn “cảnh cáo” và không muốn báo chí, truyền thông nhắc đến cuốn tiểu thuyết này…

             – TCTT là tác phẩm rất trung thực và nhân hậu và rất hấp dẫn, nhà văn đã dồn hết sức lực mình  để viết.  Dù bị “phạt thẻ vàng”, bị cảnh cáo, nhưng đó cũng đã biểu hiện của sự cởi mở hơn,”thoáng hơn” trong việc phán xét và thẩm định tác phẩm văn học của các cơ quản lý của Đảng và nhà nước ta ? Sau tiểu thuyết TCTT nhất định sẽ có những cuốn sách viết về những “vùng cấm bay” của cuộc sống sâu hơn, mạnh bạo hơn và hấp dẫn hơn.  Anh có tin như vậy không ?

              – Tôi tin như vậy. Vì các nhà văn chân chính trong hoàn cảnh nào cũng viết những cái mà cuộc sống bức xúc, đòi hỏi. Xã hội càng cởi mở thì văn chương càng hay. Nên trong các Đại hội Nhà văn Việt Nam, các nhà văn hay nói về  tự do sáng tạo là vì thế.  Tôi tin văn học Việt Nam sẽ đến lúc sáng tác, in ấn bình thường như các nước. Gần ý thức hệ với ta nhất, như Trung Quốc chẳng hạn. Tôi dã từng phát biểu trong một cuộc hội thảo về tiểu thuyết ở Đại Lải rằng: Điện ảnh và văn học Trung Quốc gần đây có những tác phẩm lớn ngang tầm thế giới vì quan niệm về sang tác của họ thực sự cởi mở. Vì thế họ mới có được Mạc Ngôn, Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng… Nếu Mạc Ngôn được xếp vào hạng tài ba, thì Các Nhà xuất bản Trung Quốc tài bẩy và Ban Tư tưởng Văn hóa Trung Quốc tài mười (!) Về cái sự tài này, theo tôi,  Nhà xuất bản Hội Nhà văn vừa qua cũng xứng lắm. Có như thế văn học của chúng ta mới mong có những tác phẩm được nhân dân trông đợi. Tiểu thuyết của tôi thường hay mang tính phản biện, tính luận đề …. Tôi không thích viết những cuốn sách kể chuyện bình thường, đơn điệu, vì cuộc sống vốn rất  phức tạp. Tôi luôn cố gắng để văn chương mình thực sự có ích , nhận được sự đồng cảm của đông đảo bạn đọc. TCTT có thể coi là một cố gắng mới của tôi. Tôi đã huy động tất cả vốn sống,  kiến thức hiểu biết của mình và vật vã trong 4 năm trời để phản ảnh hiện thực đất nước một chặng đường dài sau 1954 đến nay , không ngại khai thác những vùng được coi là nhạy cảm. Nên đối với tôi đây là đứa con tâm huyết.Có người đánh giá  đây là tác phẩm ” của một đời cầm bút…”, “tác phẩm tổng kết đời văn của tôi” có lẽ cũng không quá. Tiểu thuyết TCTT được phát hành bình thường đến đông đảo bạn đọc  làm cho tôi thật sự xúc động và tin tưởng. Tôi cám ơn Nhà xuất bản Hội Nhà văn , cám ơn các  cơ quan quản lý  văn hóa đã có cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn trên tinh thần  cởi mở để cho cuốn sách được sống đời sống của nó trong  xã hội. 

       – Tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc của anh được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1997,TCTT ra đời sau hơn 10 năm, gây xôn xao dư luận, tất nhiên con đẻ ra thì đứa nào mình cũng  yêu, cũng quý, nhưng trong  hai cuốn tiểu thuyết đó, anh tâm đắc với cuốn  nào hơn ?

        –  Trong  30 năm qua, từ năm 1979 đến nay tôi đã xuất bản 12 cuốn tiểu thuyết và 9 tập truyện ngắn, nhưng phải nói Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão và Thời của Thánh thần  là những  cuốn tâm đắc nhất. Thực ra Thủy hỏa đạo tặc là cuốn đầu trong bộ tiểu thuyết Gia phả của đất gồm 2 cuốn : Thủy hỏa đạo tặc ( 1996) và Đồng sau bão (2000).Thủy hỏa đạo tặc tôi viết về nông thôn đồng bằng Bắc Bộ  đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Đó là giai đoạn khốn khó nhất của bà con nông dân, phải khoán chui lén lút, cuộc sống vô cùng quẩn bách. Tôi viết xong tiểu thuyết này năm 1982. Lúc đầu lấy tên là Vùng gió quẩn. Đưa bản thảo đi hết nhà xuất bản này đến nhà xuất bản khác, anh biên tập viên nào đọc cũng  “rất thích, rất hay”, nhưng không “nhà” nào dám in. Mãi đến năm 1996 mới in được. Đó là cuốn tiểu thuyết cũng “rất nóng”, bám rất sát hiện thực đời sống nông thôn, có  tính phản biện mạnh mẽ. Đó là thời của bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc ở Vĩnh Phú. Tiểu thuyết này mà in ra lúc đó thì tác giả cũng nguy. Ông Kim Ngọc , một  bí thư tỉnh ủy mà còn bị  khép tội “chống đường lối” bị đày đến khốn khổ, nhà văn như tôi là cái thá gì ! Nhưng in vào năm 1996 , lúc đó tình hình nông thôn nước ta đã được “tháo khoán”, tiểu thuyết lại được đánh giá là xuất  sắc, được giải thưởng Hội nhà văn. Nhưng tôi nghĩ nếu nó được in ra trong năm 1982 thì tác dụng xã hội của nó sẽ lớn hơn nhiều . Cuộc đời thật  trớ trêu: Thứ được coi là  “thuốc độc” thời này lại là “thuốc bổ” thời khác. Bởi thế mà tôi thường nghĩ : Văn chương là một nghề bạc bẽo và khổ ải…

           Còn TCTT có thời gian phản ảnh dài hơn, không gian rộng hơn  và tính chất phản biện xã hội cũng quyết liệt hơn . Một nhà văn đã đúc kết rất cô động trên mạng : ” Thời của Thánh Thần” viết về những số phận khác nhau của một gia đình có truyền thống khoa bảng ở làng quê châu thổ sông Hồng. Bốn anh em trai Khôi, Vĩ, Vọng, Quặc ba người con đẻ, một con nuôi, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, mỗi người đi mỗi ngả. Có người trở thành cán bộ lãnh đạo; có người là nhà thơ nhưng bị quy là theo nhóm Nhân văn, xét lại; có người di cư vào Nam rồi di tản sang Mĩ; có người ở nhà cày ruộng. Cùng với họ là những người đàn bà, những người vợ, những mối tình sét đánh, éo le, ngang trái…Ba thế hệ của một gia đình, từ ông Lí Phúc, đến bốn người con trai của ông, rồi đến những đứa cháu của ông đã vật vã trên nửa thế kỉ của đất nước trong cơn gió bụi và cuộc bể dâu.  Cải cách ruộng đất; Đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, chống Xét lại; Giải phóng miền Nam, thống nhất Đất nước; Hoà hợp dân tộc…những vấn đề cốt lõi ấy, được xem xét và đánh giá qua những số phận mấy đời chìm nổi của một gia đình.   Đòn xoáy khốc liệt suốt hai cuộc chiến tranh đã cuốn họ đi, nhào nặn nên tính cách và số phận của họ…”.

                Đối với tôi mỗi cuốn tiểu thuyết có một nhiệm vụ. Thủy hỏa đạo tặc hay Thời của Thánh thần đã  làm  xong nhiệm vụ của nó.Tôi thấy mình đã làm trọn bổn phận người cầm bút.    

          – Nghe nói TCTT lúc đầu tên khác, sau đó anh đổi lại. Cuốn sách “nóng thế”, anh có gặp khó khăn gì khi đưa bản thảo cho nhà xuất bản không ? Tôi quý những bà đỡ cho cuốn tiểu thuyết ra đời như Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh , họ có khó khăn gì  khi biên tập xuất bản và sau khi xuất bản cuốn sách ?    

           –  Đúng là cuốn tiểu thuyết TCTT lúc đầu tôi đặt tên là “Tốt sang sông“. Vì trong cờ tướng, tốt sang sông  sẽ trở thành một quân cờ nguy hiểm, nó có thể  làm được mọi việc theo ý mình . Con Tốt mà sang sông, tức là đứa tiểu nhân lúc đã đắc thế. Đây là câu của Nguyễn Tuân trong ” Vang bong một thời”…Cái ý “tốt sang sông” là  ý trong một câu thơ của cố nhà thơ Trịnh Thanh Sơn.  Khi tôi đưa bản thảo lần cuối cho nhà văn Nguyễn Khắc Trường, tác giả Mảnh đất lắm người nhiều ma, Tổng biên tập NXB Hội Nhà văn, người sẽ ký “giấy thông hành” cho cuốn tiểu thuyết vào đời, là người đọc đầu tiên. Anh đọc xong  chẳng nói năng gì về chất lượng nội dung cả. Nhưng lại bảo: “Phải cân nhắc lại cái tên sách, có một cuốn sách của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh in ở Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, với tựa đề Khi con tốt sang sông”. Truyện của ông lẽ ra phải đặt là “Những người khốn khổ”, hoặc “Con đường đau khổ”. Tiếc là các cụ Vichto Huygô và Alếcxan Tôlxtôi đã đặt mất rồi…”. Tôi mừng vì như thế là Nguyễn Khắc Trường đã đồng ý  về nội dung, chỉ băn khoăn tên sách. Tôi đọc lại bản thảo, chợt phát hiện ra rằng, mình nên lấy tên tập thơ đầu tay của nhân vật Nguyễn Kỳ Vỹ đặt cho cuốn tiểu thuyết  là  tốt hơn cả. Thế là cái tên THỜI CỦA THÁNH THẦN được khai sinh.

           Tôi cho rằng, Nhà xuất bản Hội Nhà văn có đội ngũ biên tập đáng tin cậy. Tôi rất kính trọng  họ. Họ hiểu nghề nghiệp và hiểu người viết muốn nói gì. Tôi  biết  ơn Trung Trung Đỉnh- Nguyễn Khắc Trường- Tạ Duy Anh- ba nhà văn là bộ ba tâm huyết và dũng cảm. Nếu không có họ thì cuốn sách không ra đời được.  Họ đã chịu đựng nhiều phiền toái, áp lực, nhưng họ đã làm được việc có ích cho nhà văn, cho đời. Giá mà Nhà xuất bản nào cũng có những biên tập viên trình độ và bản lĩnh như thế !

          – Người ta đồn rằng, trong TCTT các nhân vật đều “ám chỉ” người này người khác, rồi nói tới một  dòng “văn học ám chỉ”. Vậy ,anh có thể tiết lộ các nhân vật của anh trong TCTT  như Tư Vuông, Kỳ Vỹ, Kỳ Vọng,  Kỳ Quặc,  Chiến Thống Nhất,   Đào Thị Cam, Châu Hà… “ám chỉ” ai trong  cuộc sống xã hội một thời mà tiểu thuyết phản ảnh ?

           – Đây không phải là tiểu thuyết viễn tưởng. Không phải tiểu thuyết lịch sử, mà đây là văn học đương đại. Nghĩa là lấy hiện thực đất nước làm cảm hứng xuyên suốt. Nhà văn thì bao giờ  cũng phải có bột mới gột nên hồ. Nhưng viết sự thật  một trăm phầm trăm thì lại là ký mất rồi. Tiểu thuyết là hư cấu. Nên hình tượng  nhân vật tốt – xấu, ác-hiền trong tác phẩm  giống nhiều người  hay không là do khả năng hư cấu , xây dựng hình tượng khái quát của tác giả. Đọc sách thấy cá tính, lời nói, nhân cách, đạo đức nhân vật này giống người này, người khác nhưng thực ra không giống ai cả. Nên cái gọi là “văn học ám chỉ” không thuộc phạm trù  tiểu thuyết, đó chỉ là  từ ngữ của các nhà phê bình thực dụng và cơ hội “sáng tạo” ra mà thôi.

          – Ở Huế đa số bạn đọc phải đọc TCTT trên mạng, vì không mua được sách. Nhưng nghe nói sách được xuất bản  với ti-ra lớn, bán chạy lắm, lại thêm các nậu “luộc” đi “luộc” lại. Anh có thể cho biết vài chuyện về việc đó không ?

          –  Sách in 1000 cuốn bán hết vèo ngày trong  tháng đầu phát hành. Có người như nhà thơ Hoàng Cát nghèo thế, sách  đắt thế mà  mua tới 12 cuốn sách để tặng bạn bè.Rồi  nhiều bạn bè tôi ở Hà Nội mua hàng chục cuốn gửi làm quà cho bạn bè, người thân… Cuốn mình tặng Ngô Minh  là cuốn sách bị in lậu đấy. Chỉ còn một cuốn mà bạn bè Huế thì đông.  Sách gốc bìa gấp, có  chân dung mình do họa sĩ Lê Lam ký họa, có phần lạc khoản về tác giả, tác phẩm và giải thưởng, rất trang trọng .   Để có nhiều lời, bọn nậu sách đã bỏ cái bìa gấp đi , mất đẹp, mất sang đi, chắc là “để tiết kiệm” tiền in. Nghĩa là in lậu đã đến mức công khai , nên chẳng cần  luộc giống làm gì cho tốn kém. Cứ như là nước  ta không có  cơ quan quản lý xuất bản sách vậy ! Nghĩa là chúng không biết sợ nữa. Hay là chúng được ai đó bảo kê ? Mà chẳng cần bìa gấp giới thiệu cũng bán vèo vèo. Ở Hà Nội sách lậu này bán đầy  các phố như phố Nguyễn Xí, Đinh Lễ, Trần Quốc Hoàn…. Những người làm xuất bản sách ước tính có tới 5 vạn cuốn sách Thời của Thánh thần bị luộc tung ra thị trường trong năm qua. Đa số người đọc đều  đọc sách in lậu. Kỳ lạ hơn,  sách vừa phát hành tại Hà Nội trung tuần tháng 8 năm 2008, mà chỉ một tháng sau, ngày 23 tháng 9 năm 2008, đã được post lên mạng của trang web Vietnamthưquan. Trong thư ngỏ gửi Vietnamthuquan, tôi  phản đối : “Họ lược mất hai câu đề từ: “Dáng Việt, lưng còng Mẹ/ xót xa muôn kiếp Lạc Hồng“. Thiếu cả hai câu thơ Đoàn Thị Điểm – Đặng Trần Côn đề từ cho Phần I “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi / Khách má hồng  nhiều nỗi truân chuyên”.  Đó là chưa kể rải rác suốt 29 chương, đầy rẫy những chữ vi tính sai và lỗi chính tả….Chính vì thế mà niềm vui của tác giả khi thấy đứa con tinh thần của mình được vinh hạnh vào trang web của Vietnamthuquan, chưa kịp hé lộ, đã như bị dội gáo nước lạnh, như thấy mình bị tổn thương…Chẳng lẽ Vietnamthuquan và những người in giả tiểu thuyết “Thời của Thánh Thần” đang bán tràn lan khắp Hà Nội và các tỉnh thành, cũng chỉ là một?  Trên mạng Vietnamthuquan, và các trang mạng khác số người truy cập một năm qua tới nửa triệu lượt. Đó là chưa  kể số bạn đọc lấy sách trên mạng về rồi  in ra, truyền tay nhau đọc cũng  không nhỏ. Như vậy, tính cả số lượng người đọc sách Thời của thành thần trên VNthuquan  nữa thì số sách TCTT lưu hành trong xã hội vượt số lượng sách Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành tới  cả trăm lần ! Những kẻ in sách giả vi phạm luật bản quyền, không nộp thuế cho Nhà nước, không trả nhuận bút cho tác giả, quản lý phí cho Nhà xuất bản. Bây giờ mình phải mua sách của mình  bị  in lậu để tặng bạn bè.  Thế mới đau !

Một trang sách THỜI CỦA THÁNH THẦN in lậu bị sai rất nhiều lỗi chính tả.Có khi mất cả dòng.

          
            –  Thế theo nhà văn, có cách gì để  ngăn chặn bọn in lậu ?

            –  Theo tôi, nếu sách không phạm vào các điều cấm, độc giả có nhu cầu cao, thì cơ quan quản lý nên cho Nhà xuất bản tái bản bán thoải mái . Đó là cách chống sách  in lậu hiệu quả nhất…Tôi cũng đã có văn bản gửi Trung tâm Bản quyền tác giả văn học VN để nhờ bảo vệ. Và tất nhiên, nhiều lần đề nghị NXB Hội nhà văn cho tái bản. Nhưng ông giám đốc cười ruồi, như muốn thở hắt ra : Bác ngây thơ thế. Bác ngây thơ thế ?

            – Xin cám ơn nhà văn vì cuộc trò chuyện thú vị…

 


Huế, tháng 7.2009

 

Nhãn: , , ,

Nguy cơ từ sự hồn nhiên của người dùng Facebook

Nguy cơ từ sự hồn nhiên của người dùng Facebook

 FB-jpg-1357899857_500x0.jpg

Nhiều người đang vô tư khoe thông tin cá nhân như ảnh, địa chỉ nhà, tài sản có giá trị và cả những kế hoạch đi chơi lên mạng xã hội mà không để ý đến các nguy cơ rình rập.

 

Cuối năm 2012, cộng đồng mạng lan truyền video về một “thầy phù thủy” có khả năng “siêu phàm”. Chỉ cần biết tên người ngồi đối diện, ông thầy có thể nói chính xác nhiều thông tin nhạy cảm và riêng tư mà tưởng chừng như chỉ người đó mới biết, như số tiền mà cô gái đã bỏ ra để mua áo tháng trước đó, vị trí hình xăm trên người, thậm chí biết cô từng có 3-4 bạn trai… Tuy nhiên, thực ra ông không hề có năng lực bí ẩn mà hậu thuẫn ông là một đội “chuyên gia bàn phím”. Họ chỉ cần nhập tên và tra cứu qua Google hay Facebook là đủ để xây dựng một hồ sơ khá hoàn chỉnh về người xa lạ. Nói cách khác, một kẻ với âm mưu xấu nào đó cũng có thể thu thập những điều tương tự như thế chỉ bằng việc lần mò thông tin và giả vờ kết bạn trên Facebook.

 

Video về thầy phù thủy online

 

Tuy nhiên, suy nghĩ chung của không ít người là những lời cảnh báo ấy không dành cho mình, sẽ không xảy ra với mình hoặc đó là chuyện “lo bò trắng răng”, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.

 

Hàng ngày trên Facebook và Foursquare, các thành viên vẫn khoe chuyện vừa sắm xe, điện thoại, dàn loa mới, “check-in” địa điểm mỗi khi về nhà, đến công ty hay đăng ảnh cả nhà đang đi du lịch… Đây là những chia sẻ hoàn toàn bình thường giữa bạn bè và người thân với nhau. Tuy nhiên, trên Facebook của mỗi người không chỉ có bạn bè ngoài đời mà còn có cả những “bạn” họ chưa từng gặp và thậm chí chưa một lần trò chuyện qua Facebook.

 

Nếu có âm mưu từ trước (hoặc bỗng dưng nổi lòng tham khi nhìn thấy tài sản giá trị), kẻ xấu sẽ không khó tập hợp thông tin về thành viên Facebook đó như họ sống một mình hay với ai, đi làm vào thời gian nào, ở đâu… và lên kế hoạch đột nhập khi chủ nhân khoe trên mạng là đang không ở nhà (đi công tác, đi chơi, đi ăn ở ngoài).

 

Có người vô tư đăng ảnh, tên, lớp, trường, thời gian biểu của con và cả tên và số điện thoại của cô giáo lên mạng mà không nghĩ đến chuyện có thể gây hại cho con (như tội phạm có thể đưa ra các thông tin trên và vờ làm người nhà của trẻ).

Ngay cả trong giới nghệ sĩ, nhiều “sao” cũng được khuyến cáo không nên tường thuật trực tiếp lên Fan Page về chuyện họ đang phải đi về muộn hay đang tham dự tiệc ở đâu đó. Lời nhắc nhở này xuất phát từ việc một số “hot girl” thi thoảng vẫn chụp ảnh “tự sướng” rồi cập nhật Facebook tức thì, hoặc than thở “giờ này vẫn còn chưa về đến nhà”… Kẻ cướp có thể kết bạn với các nghệ sĩ để chọn lọc, truy tìm “mồi ngon” đang mang trên mình trang sức, phụ kiện đắt tiền sau khi rời sàn diễn.

 

Tuy nhiên, tình trạng lợi dụng sơ hở của thành viên mạng xã hội để tấn công ngoài đời có thể ít xảy ra hoặc ít người nghe nói đến trường hợp cụ thể nào ở Việt Nam nên đa số vẫn rất chủ quan. Trong khi đó, mối nguy hại này đã được nhiều nước cảnh báo. Tổ chức phòng chống tội phạm quốc gia Ai-len cho hay số vụ trộm cướp năm 2012 ở nước này tăng lên so với năm trước có một phần liên quan đến mạng xã hội và nhắc nhở người dùng Internet cần cẩn trọng mỗi khi chấp nhận kết bạn với người lạ và khi đưa thông tin mang tính cá nhân, riêng tư lên mạng.

 

Một chia sẻ rất bình thường và phổ biến trên Facebook, nhưng có thể lại là thông tin quý với kẻ có ý đồ xấu.

Báo Telegraph cũng từng đăng khảo sát được thực hiện với một nhóm tội phạm (đã bị bắt) ở Anh và kết quả là 79% những tên trộm được hỏi khẳng định đã dùng mạng xã hội làm công cụ “săn mồi”. Chúng cũng lấy đi tài sản có giá trị trung bình 600 USD từ mỗi ngôi nhà viếng thăm. “Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên số với tội phạm số – những kẻ đang khai thác sự kết nối và chia sẻ trên mạng xã hội để tiếp cận nạn nhân tiềm năng. Mọi người đang ‘mời giặc về nhà’ mà không hề hay biết”, tờ báo này khẳng định.

 

Giữa năm ngoái, báo chí Australia đưa tin một một cô gái 17 tuổi ở Sydney đã nổi hứng chụp ảnh đăng Facebook khi đang giúp bà đếm tiền tiết kiệm. Ngay đêm đó (29/5/2012), hai tên cướp cầm vũ khí đã xông vào nhà của nạn nhân và tra hỏi về số tiền chúng thấy trong ảnh. Các nhà chức trách địa phương sau đó đã phải đưa ra cảnh báo về nguy cơ tiềm ẩn khi đăng tải thông tin gia đình và bản thân lên mạng, đồng thời đề xuất các nguyên tắc sử dụng căn bản cho người dùng như không công khai các thông tin cá nhân, không đồng ý kết bạn với người lạ, không cập nhật nhiều về các hoạt động cá nhân hàng ngày… để tránh bị theo dõi.

 

“Trước khi sự cố xuất hiện, không ai lại nghĩ rằng chuyện đó sẽ xảy ra với mình. An toàn là trên hết, hãy ghi nhớ điều đó mỗi khi vào một trang mạng xã hội. Bạn chỉ nên chia sẻ những thứ mà bạn có thể đảm bảo là sẽ không làm ảnh hưởng đến cuộc sống về sau”, trang Howstuffworks khuyên.

 

Châu An

(Nguồn vnexpress)

 

Nhãn: ,

Phạm Duy “còn đó…muôn đời”

Phạm Duy “còn đó…muôn đời” 

(Ảnh: Phạm Duy)

 

 

“Thơ hay có thể bị vua bắt

Trăng nhé nghìn đêm bạc tiếng gà”

( Trích bài thơ “LÝ BẠCH” của Trần Mạnh Hảo)

Chúng tôi (TMH) xin mượn tên cuốn sách : “Phạm Duy còn đó nỗi buồn” của họa sĩ, nhà văn Tạ Tỵ làm tiêu đề cho bài viết về nhạc sĩ Phạm Duy của mình.

Phạm Duy –  (từng là ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng nhất của nền tân nhạc Việt Nam, từng là giáo sư dạy trường Quốc gia âm nhạc Sài Gòn, một nhà nghiên cứu âm nhạc xuất sắc, một nhà văn, nhà báo có phong cách riêng khi viết báo, viết hồi ký )- kể từ bài hát đầu tiên phổ thơ Nguyễn Bính, bài “ Cô hái mơ” viết năm 1942 đến nay, đã có hàng mấy trăm bài hát ( có người còn cho ông đã viết đến con số trên dưới 1000 bài ?) làm xúc động lòng người Việt Nam suốt hơn 70 năm nay. Phạm Duy không chỉ là một hiện tượng âm nhạc vắt qua hai thế kỷ; hơn nữa, ông còn là một hiện tượng xã hội, một hiện tượng văn hóa, một hiện tượng lịch sử, cần phải có nhiều nhà Phạm Duy học mai sau nghiên cứu về ông.

Thuở nhỏ, thời kháng chiến chống Pháp, kẻ viết bài này từng nghe bà mẹ mình – một người hát thánh ca trong ban Ca vịnh nhà thờ- từng dùng nhạc Phạm Duy ru con. Những lời ca, giai điệu Phạm Duy đã thấm vào hồn tôi từ thơ bé qua tiếng hát ru của mẹ như bài “Nương chiều”  :

“ Chiều ơi, lúc chiều về rợp bóng nương khoai, trâu bò về giục mõ xa xôi, ơi chiều…Chiều ơi, áo chàm về quảy lúa trên vai, in hình vào sườn núi chơi với, ới chiều…”

Bài “ Nhạc tuổi xanh” :

…”Rừng ta ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây, ruộng ta ta cứ cày…Diệt xong quân Pháp kia cười vang ta hát câu tự do…”

Thỉnh thoảng, khi buồn vui, mẹ tôi lại khe khẽ hát mấy bài Phạm Duy viết trong kháng chiến chống Pháp, ví như : “Cây đàn bỏ quên”, “Khối tình Trương Chi”, “Bên cầu biên giới”, “Tiếng đàn tôi”, “ Mười hai lời ru”…

Những bài hát của Phạm Duy, của Văn Cao ( trước 1945) của mẹ tôi được chép trên giấy học trò; có khi là những bản chép nguyên cả khuôn nhạc in bột trên giấy bản nhầu nát; có khi, bố tôi ( một người hát nhạc nhà thờ trong ban Ca vịnh biết chơi đàn và biết xướng âm bản nhạc) phải dùng hộp bao diêm làm dụng cụ kẻ nhạc, đặng chép lại bản nhạc cho rõ ràng giúp mẹ tôi)…

Cải cách ruộng đất, gia đình tôi bị quy lên địa chủ, các bản nhạc chép tay kia của Phạm Duy, Văn Cao… đều bị mất. Nhưng mẹ tôi thi thoảng buồn, lại ngồi một mình khe khẽ hát nhạc Phạm Duy, Văn Cao, Đỗ Nhuận… Những bản nhạc tuyệt vời của Phạm Duy, Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Yên, Văn Chung, Doãn Mẫn, Canh Thân, Đoàn Chuẩn, Việt Lang, Hoàng Qúy, Tô Vũ, Hoàng Giác…bị quy là nhạc vàng, nhạc phản động, đồi trụy, bị cấm.

Tôi thường sang nhà người bà con hàng xóm, cùng với ông em họ ( lớn tuổi hơn tôi) tên là chú Bá, ghé tai vào cái radio hiệu Siêng Mao nghe đài Sài Gòn phát nhạc vàng thời tiền chiến, mặt lấm la lấm lét như hai tên ăn trộm…Một hôm chú Bá vừa đi đường vừa nghêu ngao bài “ Nhớ Chiến khu” của Đỗ Nhuận ( thực ra bài này chính là bài nhạc cách mạng, nhưng âm giai buồn buồn da diết giọng nhạc vàng của “Suối mơ”, “ Bến Xuân”…) nên Bá bị công an xã bắt, quy lên hát nhạc vàng của bọn Mỹ Diệm phát ra từ cái radio phản động…Chiếc radio Siêng Mao của Bá bị công an xã tịch thu…

Từ đó, suốt tuổi thơ, tôi không còn được nghe những giai điệu tiền chiến bất hủ kia nữa. Cho mãi tới sau này, khi ở trong rừng miền Nam, trở thành một nhà báo và mua được cái radio bé tí, tôi lại tiếp tục được nghe ( lén)  nhạc Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Phạm Đình Chương, Cung Tiến…dưới hầm hào bom đạn…

Ngày 30/4/1975, từ rừng Lộc Ninh về Sài Gòn, chưa kịp hoàn hồn, tôi đã bị Sài Gòn đánh chiếm bằng văn hóa, bằng văn học, bằng sách vở, âm nhạc. Phạm Duy và Trịnh Công Sơn đã tái chiếm tâm hồn tôi; và hình như tôi, đã tự nguyện quy hàng thứ âm nhạc, thứ văn học, văn hóa mà chế độ mới đang kết án, cho là văn hóa phản động, đồi trụy. Các loại sách dịch gần như vô tận của Sài Gòn còn sót lại sau đại họa đốt sách của chế độ mới đã xâm lược đầu óc tôi, giải phóng tôi thoát khỏi ngục tù của dốt nát, của u mê, của cuồng tín ngớ ngẩn một thời, “bắt” tôi vào trường tự nguyện “học tập cải tạo” đến giờ chưa chịu thả ra…

May mắn thay, đầu tháng 5/1975, anh Trịnh Công Sơn đã cho tôi và Trần Nhật Thu mượn cái máy nghe nhạc cũ kỹ mà anh không còn dùng tới. Suốt mấy tháng trời, các kiệt tác âm nhạc của bên thua trận như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, các bài hát tuyệt vời của Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Văn Phụng, Hoàng Trọng, Phạm Thế Mỹ, Tuấn Khanh, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Trần Thiện Thanh, Y Vân, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Lê Uyên Phương, Trần Trịnh, Phạm Mạnh Cương, Trường Sa, Anh Bằng, Khánh Băng, Nguyễn Ánh 9, Nguyễn Trung Cang, Lê Trọng Nguyễn, Hoàng Nguyên, Văn Giảng, Đan Thọ, Vũ Đức Sao Biển, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Đức Quang…qua tiếng hát của các danh ca : Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Hà Thanh, Thanh Lan, Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Khoa,  Elvis Phương… đã bắt sống tâm hồn tôi làm tù binh, cùng với thơ Nguyên Sa, thơ Nhã Ca, văn Võ Phiến, Mai Thảo, Phan Nhật Nam, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam…nhốt thế giới tinh thần tôi vào trang sách, vào khuôn nhạc khóa sol năm dòng kẻ của họ và “lưu đày”  tâm hồn tôi lại mãi với những bài ca đích thực con người…

Tôi yêu các nhạc sĩ có một bài hát bất hủ để đời, ví như : “Xuân và tuổi trẻ” ( La Hối phổ thơ Thế Lữ), “Cô láng giềng” của Hoàng Qúy, “ Em đến thăm anh một chiều mưa” của Tô Vũ, “ Biệt ly” của Doãn Mẫn, “Giáo đường im bóng” của Nguyễn Thiện Tơ, “Hướng về Hà Nội” của Hoàng Dương, “Nắng chiều” của Lê Trọng Nguyễn, “Ai lên xứ hoa đào” của Hoàng Nguyên, “ Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng Hoàng, “Chiều tím” của Đan Thọ, “ Ai về sông Tương” của Văn Giảng, “Thu ca” của Phạm Mạnh Cương, “Sang ngang” của Đỗ Lễ, “Thương nhau ngày mưa” của Nguyễn Trung Cang, “Thu hát cho người” của Vũ Đức Sao Biển, “ Tôi đưa em sang sông” của Nhật Ngân và Y Vũ…

Huống hồ, với thiên tài Phạm Duy đã có hàng mấy chục bài hát bất hủ để đời, trong đó có đến vài chục bài thuộc hàng kiệt tác, thì tôi càng kính phục ông hơn, yêu mến ông biết là chừng nào. Chính vì vậy, ngay từ khi chưa biết chữ, nghe mẹ tôi hát nhạc Phạm Duy, đôi tai tôi đã bị ông này lấy mất, để rồi ông thả tâm hồn tôi suốt hơn sáu mươi năm nay lang thang cùng nỗi “khóc cười theo vận nước nổi trôi” của Phạm tiên sinh.

Chúng tôi xin phép kể ra các ca khúc tuyệt vời và rất hay của nhạc sĩ Phạm Duy mà cá nhân tôi yêu thích, đã góp phần làm thay đổi cuộc đời tôi :

“Nương chiều”, “ Tình ca”, Nhạc tuổi xanh, “ Bên cầu biên giới”, “Ngậm ngùi”, “Áo anh sứt chỉ đường tà”, Ngày trở về, Mùa thu chết, Thuyền viễn xứ, Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Bà mẹ quê, Cây đàn bỏ quên, Nghìn trùng xa cách, Việt nam Việt nam, Bên ni bên nớ, Còn chút gì để nhớ, Nha trang ngày về, Đưa em tìm động hoa vàng, Kỷ niệm, Ngày xưa Hoàng thị, Giọt mưa trên lá, Tình hoài hương, Tiếng đàn tôi, Đố ai, Tiếng sáo thiên thai, Nụ tầm xuân, Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà, Cành hoa trắng, Cô gái Bắc kỳ nho nhỏ, Thương tình ca, Thà như giọt mưa, Cỏ hồng, Người về, Đường em đi, Chuyện tình buồn, Nhớ người thương binh, Con đường tình ta đi, Ông trăng xuống chơi, Chiến sĩ vô danh, Tuổi ngọc, Phượng yêu, Còn gì nữa đâu, Thương ai nhớ ai, Gọi em là đóa hoa sầu, Em đi lễ chùa này, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Kiếp nào có yêu nhau, Yêu là chết ở trong lòng, Khối tình Trương Chi, Tóc mai sợi vắn sợi dài, Nước mắt mùa thu, Chiều về trên sông, Tôi đang mơ giấc mộng dài, Hẹn hò, Nước mắt rơi, Kỷ vật cho em, Tiễn em, Trả lại em yêu, Chủ nhật buồn, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Ta yêu em lầm lỡ, Giết người trong mộng, Bao giờ biết tương tư, Em hiền như Masoeur, Đừng nhìn nhau nữa em ơi, Nước non ngàn dặm ra đi, Ai đi trên dặm đường trường, Gió đưa cành trúc la đà, Con đường cái quan ….

Những kiệt tác ca, tuyệt tình ca trên gồm đủ thể loại ca nhạc như cách mạng ca, sơn hà ca, quê hương ca, tình ái ca, tâm tư ca, trường ca, rong ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca, tâm phẫn ca, tục ca, vỉa hè ca, thiên địa ca, vô thường ca, hư vô ca, nhật nguyệt ca, vũ trụ ca, sầu mộng ca, hoan lạc ca, Phật ca, Chúa ca, quỷ ca, Càn khôn ca, Ta bà ca, Lão Trang ca, Thần tiên ca, sinh diệt ca, liêu trai ca, mộ địa ca, hú hồn ca, yêu tinh ca, du mục ca, tang bồng ca, ma xó ca, ngật ngưỡng ca, túy lúy ca, siêu hình ca, vô ngôn ca…

Phạm Duy còn có đóng góp lớn là món NGOẠI CA, tức công việc chuyển ngữ cho các kiệt tác âm nhạc nước ngoài vào thị hiếu âm nhạc Việt Nam mà khi hát lên, nhiều người vẫn cho là ca khúc Phạm Duy…

Những tuyệt tác ngoại quốc được Phạm Duy chuyển ngữ và chỉnh sửa, phỏng lời, hoặc nắn lại nốt nhạc cho hợp tai người Việt Nam gồm : Ave Maria, Mối tình xa xưa, Dòng sông xanh, Khúc hát thanh xuân, Chiều tà, Dạ khúc, Trở về mái nhà xưa, Mơ màng, Ánh đèn màu, Vũ nữ thân gầy, Tình vui, Chuyện tình, Em đẹp nhất đêm nay, Cánh buồm xa xưa, Giàn thiên lý đã xa, Vai áo màu xanh, Hận tình trong mưa, Nắng thu, Bài ca ngợi tình yêu, Emmanuelle, Himalaya, Hờn ghen, Khi xưa ta bé, Không cần nói anh yêu, Khúc hát thanh xuân, Lại gần hôn em, Nắng xuân, Ngày tân hôn, Người yêu nếu ra đi, Biết ra sao ngày sau, Tình yêu ôi tình yêu, Vĩnh biệt người tình, Vĩnh biệt tình ta….

Thật không thể nào tin được, một ông Phạm Duy bằng xương bằng thịt lại có thể viết được ngần ấy bài tuyệt tình ca hay đến thế, mê hoặc hồn người Việt Nam đến thế. Có cảm giác chỉ một mình Phạm Duy đã là cả một thời đại tân nhạc Việt Nam. Có cảm giác trong người ông Phạm Duy còn giấu ẩn cả trăm nghìn người khác; hoặc trong thân xác ông còn giấu cả trăm nghìn bộ óc khác, trăm nghìn trái tim khác; trong hồn ông còn giấu trăm nghìn hồn khác; trong đôi tai ông còn giấu trăm nghìn đôi tai khác. Cho nên ông mới đủ sức làm ra một gia tài âm nhạc vô cùng đồ sộ, với một chất lượng không thể nào tưởng tượng ra được, rằng đây là sản phẩm của chỉ một con người ?

Khi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy bước vào tuổi 93 đang lâm trọng bệnh, tôi ngồi trong nhà, một mình tha thẩn ngoài sân nghe lại một cách hệ thống mấy chục album nhạc Phạm Duy trên Internet suốt cả nửa tháng trời mà lấy làm vô cùng thán phục ông. Hình như ông Phạm Duy chính là lò sản xuất ma xó vào loại lớn nhất thế giới ? Trong mỗi bài hát, chừng như Phạm Duy đều gài vào năm dòng kẻ nhạc khóa sol của ông một con ma xó, hầu hớp hồn người nghe ?

Tôi đồ rằng tâm hồn ông Phạm Duy có chứa một cái dạ dày ( tất nhiên là dạ dày tinh thần) to bằng cả bầu trời ? Quái kiệt giời sai xuống trần gian có tên là Phạm Duy có cái dạ dày tâm hồn biết tiêu hóa muôn muôn sự vật, từ sự vật thể chất đến sự vật tinh thần, rồi biến chúng thành giai điệu, thành lời ca. Không có cái gì chúng ta nhìn thấy, cảm thấy, mơ thấy, sờ thấy, ngửi thấy, nghe thấy, mơ thấy mà không có trong âm nhạc Phạm Duy. Từ góc sân nhà nơi ta lẫm chẫm tập đi, tập nhìn, tập nghe, tập khóc, tập cười, tập bú mớm, tập ăn, tập uống, tập làm người, thảy thảy đều có trong âm nhạc Phạm Duy.

Con sâu cái kiến, con giun, con dế, con chuồn chuồn, con chim, con cá, con kênh, con sông, con bê, con nghé, con mèo, con chó, con lợn , con gà, con voi, con vịt, con đom đóm, con người…đều hốt nhiên tìm đến năm dòng kẻ nhạc, năm đại lộ Phạm Duy mà leo, mà bò, đi lại, chạy, chảy, bay, bơi trong âm nhạc Phạm Duy…Cái cây, cái cối, cái chày, cái thằng con nít, cái nồi, cái niêu, cái chum, cái vại, cái nhà, cái xe, cái mâm, cái chết, cái sống, cái hư vô, cái thực tại, cái vô thường, cái hữu hạn, cái vô vi, cái sinh diệt, cái ác, cái thiện, cái tốt, cái xấu, cái sai, cái đúng, cái đẹp, cái thoáng chốc, cái muôn đời, cái đểu, cái chân, cái mê, cái tỉnh, cái giả, cái buồn, cái vui, cái bất tử, cái siêu hình, cái yoni ( cái l…) cái Linga ( cái c…), cái vợ, cái con, cái váy, cái khăn, cái nón, cái mồm, cái tay, cái chân, cái tóc, cái lông, cái dại, cái khôn, cái mùi, cái mát, cái tai, cái âm dương, cái phồn thực, cái mất, cái còn…đều được cái dạ dày âm nhạc khủng long của Phạm Duy tiêu hóa mà biến thành muôn vàn âm giai, muôn vàn làn điệu, muôn vàn lời ca ma ám, ám lấy hồn người ?

Phạm Duy, ông có phải là thượng đế của âm giai, phù thủy của khóa sol, ma xó của bảy thanh âm : đồ rê mi pha sol la xi, thần linh của tiết tấu, quỷ sứ của nhịp điệu, con ma của ngôn từ…hay không mà hàng trăm bản nhạc của ông không hề bị hội chứng đều đều, lặp lại ( monotone) trêu chọc, phá đám ?

Phạm Duy, có phải ngay từ trong bụng mẹ, máu Sông Hồng đã ngấm vào máu ông, hồn cốt Thăng Long trong ca dao, dân ca, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Trãi, thơ thiền Lý Trần cùng với heo may Hồ Gươm, mưa phùn Hồ Tây, gió bấc Kinh Bắc, hương cốm mùa thu chim ngói Mễ Trì, thoang thoảng hương hoa các làng hoa Ngọc hà, Nghi tàm, Nhật tân, Quảng bá ngát hơi xuân…đã làm nên máu thịt hồn ông ?  Nên đất ấy, hồ ấy, thu ấy, khí thiêng ấy, chim ấy, thơ văn ấy, gió bấc ấy, hương hoa ấy, làn điệu chèo ấy, quan họ ấy… đã mượn hồn ông mà hát lên cõi u u đất trời, hát lên nỗi lòng con người buồn vui khóc cười xứ Bắc ?

Từ tấm bé, qua gia đình, cha mẹ, qua khí trời bàng bạc thu Hà thành, qua sách vở nhà trường, qua nỗi mơ hồ thiên địa, Phạm Duy đã tắm mình trong tâm hồn dân tộc. Từ năm 1947, ông đã có một định hướng nghệ thuật hết sức đúng đắn : để cả cuộc đời nghiên cứu dân ca, ca dao, tiếp thu tinh hoa âm nhạc dân tộc, phát triển và nâng cao chúng để kết hợp với nhạc Tây phương vừa du nhập vào nước ta qua nhạc nhà thờ, qua các bản giao hưởng cổ điển trong đĩa nhạc, các ca khúc Pháp, Ý… tân thời hát trong tiệm nhảy, quán café được thanh niên trí thức Hà thành học đòi bắt chước…

Có thể nói, Phạm Duy là nhạc sĩ đầu tiên đã nghiên cứu âm nhạc dân tộc một cách hệ thống, rốt ráo, đã học tập, tiếp thu tinh hoa cha ông trong nhạc ngũ cung, nâng cao lên để kết hợp với trào lưu “ âm nhạc cải cách”( musicque renovée) thời 1938-1945 mà thành phong cách phi phong cách ( một phong cách đa phong cách không dừng lại ở một air nhạc nào) có tên là phong cách Phạm Duy, khiến người nghe nhạc ông không hề cảm thấy sự nhàm chán …

Phạm Duy, ông không phải là tháp Bayon bốn mặt của đền đài Anko Thom, Anko Vát xứ Chùa Tháp. Nhưng ông chính là tháp Bayon muôn mặt của dòng tân nhạc Việt Nam suốt 70 năm qua. Gương mặt tâm hồn ông, gương mặt âm nhạc ông quả là muôn mặt : mặt dịu hiền, mặt thiết tha êm đềm êm ái, mặt tinh khiết, mặt tươi như mặt thiếu phụ đêm xuân yêu chồng, mặt cau có đau khổ như mặt gã trai thất tình, mặt quằn quại, mặt vò xé tang thương, mặt mê ly khoái lạc, mặt dúm dó nhàu nát, mặt thất thần, mặt điêu linh, mặt lênh đênh phiêu bạt, mặt thất sắc vô hồn, mặt hoen rỉ tối tăm, mặt hư vô hư ảnh, mặt nết đa đoan trang, mặt đĩ thõa, mặt giập nát, mặt sáng bừng như trăng, mặt hoa da phấn, mặt ngây ngô, mặt tiếu lâm, mặt hồng diện đa dâm thủy, mặt nạ người, mặt yêu tinh, mặt nạ dòng vớ được giai tơ, mặt hoài nghi khôn xiết, mặt thăm thẳm vực sâu, mặt buồn đêm ngơ ngác…Tất cả muôn mặt đó họp chợ lại thành gương mặt Phạm Duy – một mình làm cả một nền âm nhạc…He he he he…

Đi tận cùng tâm hồn dân tộc, Phạm Duy đã gặp tinh hoa thế giới và trở thành hiện đại bằng sự sáng tạo mang chất thiên tài của mình.

Xin quý bạn đọc nghe vài người khác nói về nhạc sĩ Phạm Duy :

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý: “Trong ‘gia tài’ của Phạm Duy, có những tác phẩm mà qua lăng kính của mình ông đã nói lên những triết lý sâu sắc. Chẳng hạn như ‘Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với cười’… Công tâm mà nói, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ”. (Trong bài viết Phạm Duy, người bạn, người anh, người thầy của tôi).

Nhạc sĩ Lê Uyên Phương: “Như tiếng chuông vọng đến từ hư vô. Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như những tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông giá lạnh. Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đã đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí quyển của ca dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc Việt Nam. Trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam, từ đã từng là một thiếu niên trong thời kháng chiến hay đến hôm nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang một dấu vết nào đó còn sót lại của bầu dưỡng khí đã nuôi lớn tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ này” (Trích bài viết Phạm Duy, nắng chiều rực rỡ)

Thi sĩ Nguyên Sa: ‘Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây với Hoàng Cầm Ca, có những tín đồ của Thiền Ca. Có những người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng, của mini opera và của thánh ca hơn Phạm Duy của Tình ca, Phạm Duy của dân ca, Phạm Duy của Kháng chiến ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc. Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ có Phạm Duy của Tình ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy Kháng Chiến Ca. Chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy, chỉ có Phạm Duỵ… Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi, viên kim cương có một ngàn mặt. Khác biệt với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải bàn cãi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một đại dương”.

Nhạc sĩ Phạm Duy

với Hộ khẩu & Chứng minh nhân dân

===

Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5/10/1921 tại Hà Nội trong một gia đình văn nghiệp. Cha là Phạm Duy Tốn thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine…

Cuộc đời của ông ngoài việc ca hát, sáng tác nhạc còn có giai đoạn thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, và cùng chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng… Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay Cô hái mơ. Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều.

Bạn muốn biết thêm về tiểu sử nhạc sĩ Phạm Duy, chỉ cần vào trang tìm kiếm http://www.google.com  đánh hai từ Phạm Duy là từ điển mạng ( Wikipedia) sẽ cung cấp đủ cho bạn. Cũng như vậy, bạn vào trang tìm kiếm trên, đánh từ khóa : Album nhạc Phạm Duy là có thể nghe được ngót trăm Album nhạc của ông người trời họ Phạm…

http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/75

Ngày 14/8/1999 tại nhà riêng, thị trấn Midway City, miền Nam California, danh ca Thái Hằng, hiền thê của nhạc sĩ Phạm Duy đã từ trần, hưởng thọ 72 tuổi ( 1927-1999), bỏ lại trên trần gian một người chồng tưởng nghiêng trời lệch đất, tưởng như một con khủng long âm nhạc lừng lững trần ai, bỗng giờ đây bị nỗi cô đơn khủng khiếp đến rợn người úp chụp lên đầu như trời sập. Chính từ nỗi cô đơn đến tuyệt vọng vì sự ra đi của người bạn đời mà ý định “ cóc chết ba năm quay đầu về núi”, tức về hẳn Việt Nam sống nơi Phạm Duy hình thành. Sau một lần về nước thử xem một ông già từng chống cộng, nay chỉ thích chống gậy (!) coi cộng sản có còn thích bắt nhốt mình hay nữa không như hồi năm 1975? Nói dại, nếu hồi ấy ông không lẹ chân di tản, lỡ kẹt lại, Phạm Duy có thể phải ở tù cho tới chết. Năm 2005 Phạm Duy về nước sống thật, quyết định ở luôn quê hương cho đến khi ông xanh gọi về với tổ tiên.

Lập tức Phạm Duy  bị một số báo chí hải ngoại cực đoan ( chống cộng bằng chính phương pháp chụp mũ chính trị kiểu cộng sản) ném đá tơi bời hoa lá. Họ dùng tất cả sự tục tằn, thô bỉ, thậm chí dùng cả cứt đái của toàn nhân loại đổ chụp lên đầu một ông già thân cô thế cô, một mình hồi hương về cố quốc để sống nốt những ngày tàn và để chết. Họ gọi ông bằng thằng, bằng mày, bằng chó ghẻ, bằng quân nọ, quân kia. Họ cho ông ăn tất cả món dơ bẩn nhất trần đời. Rằng, làm như tất cả tội lỗi của cộng sản đều do Phạm Duy gây ra. Rằng, làm như Phạm Duy chính là thằng già đã mang tà thuyết về làm hại dân tộc, đất nước vậy …

Phạm Duy vốn là một tay chơi, một bố già đanh đá có hạng, một người nếu cần cũng mồm loa mép giải như ai, cũng anh chị Cầu Muối như ai, cũng có thể chơi cả đòn đầu đường xó chợ dao búa ( dao búa kiểu chữ nghĩa, dao búa tượng trưng) xem có chết ai nào, có mà còn khuya mới bắt nạt được bố nhá ! Phạm Duy một mình lủi thủi, túc tắc  “bút chiến” với cái đám vong thân chính trị ô hợp, một trăm ông chống cộng đều chống nhau kia bằng chiến trường Internet. Trong cuộc chiến muôn chống lại một này, chữ nghĩa trên màn hình vi tính của hai bên đều a-la-sô xung phong ồ ạt, để lại  từng đống xác chữ chết như ngả rạ trên chiến trường ảo điện báo.

Phạm Duy dùng chiếc que bông phèng cà rỡn chọc vào tổ ong vò vẽ hải ngoại : này các con giời kia, các con đã mấy chục năm nghe nhạc chùa của bố không phải trả tiền, nay còn tính ăn thịt bố chỉ còn xương bọc da nữa hay sao? Rằng, bố làm nhạc khi toàn ngồi trên bệ xí nhà vệ sinh đấy, nhạc của bố đôi khi cũng bốc mùi tí ti, sao các con chỉ cảm thấy thơm điếc mũi thế hả ? ( Chuyện này thì thiên tài  Alb. Einstein đã từng tuyên bố : tôi nghĩ ra thuyết tương đối khi ngồi trong toilet đấy !). Thế là đám kẻ thù của “thằng già lơ láo về hàng cộng sản” liền nhảy dựng lên kêu gọi, rằng ai có tro dùng tro, ai có trấu dùng trấu, ai có phân dùng phân, phen này quyết ném vào mặt thằng “dê già”, thằng “loạn luân” “ ăn chè Nhà Bè” năm xưa toàn bộ tinh thần căm thù không đội trời chung của người quốc gia chân chính ha ha ha …

Họ thi nhau bịa chuyện bôi nhọ Phạm Duy, bới móc đời tư của ông rồi chửi rủa bằng những từ ngữ bẩn thỉu nhất, hè nhau quy chụp chính trị một ông già cô đơn muốn về quê cha đất tổ để chết. Riết rồi Phạm Duy cũng mệt, hơi đếch đâu mà cãi nhau với đám bùng nhùng ba bứa ấy? Nè, bố mượn phép thắng lợi tinh thần của chú AQ Lỗ Tấn mà tạm phán rằng : các “moa” chửi “toa” cũng như đang chửi bố các “moa” mà thôi…

Những người đồng hương tị nạn ném đá vào Phạm Duy qua biển Thái Bình Dương chung quy cũng chả làm cóc gì được ông, lại còn có khi bị khí chất đanh đá cá cày đáo để chua ngoa của “vũ khí mất gà” nơi ông chơi lại tóe khói chứ chẳng chơi. Nhưng khi những người anh em bên kia giới tuyến nơi cố quốc cũng nhạc sĩ như ai, cũng trí thức trí ngủ như ai thi nhau ném đá vào ông thì ông đành thở dài, im lặng chịu đau, giả mù, giả câm giả điếc để ngồi nghe nỗi đời nhiễu nhương ra đòn thù ghen ghét tài năng.

Ấy là vào năm 2005, sau khi về nước, Phạm Duy được công ty văn hóa tư nhân Phương Nam mua đứt bản quyền trọn đời âm nhạc, trả cho ông một số tiền thù lao kha khá là một căn nhà khang trang để ở và những đêm ca nhạc rầm rộ. Công Phương Nam độc quyền bán vé  kinh doanh những đêm nhạc Phạm Duy,  lời ăn lỗ chịu, tuyệt nhiên không có sự bù lỗ của nhà nước như khi các ông nhạc sĩ quốc doanh làm đêm nhạc dối già.

Công chúng náo nức đi nghe nhạc Phạm Duy đông chật các nhà hát, thậm chí không đủ vé bán, có người còn phải mua vé lậu, vé chui đắt gấp hai ba lần giá vé chính thức. Phạm Duy bị “vây giữa tình yêu” bởi lòng yêu mến của công chúng nơi cố quận với ông đã bị dồn nén mấy chục năm trời nay chợt bùng vỡ. Ông bị dìm đến có cơ ngạt thở trong những  tràng pháo tay nổ rền như dàn sơn pháo đại hợp xướng Tân Tây lan chơi liên tù tì thời chiến tranh Việt Mỹ.

Thói đời, ma cũ bắt nạt ma mới, đám nhạc sĩ cây đa cây đề trong Hội nhạc sĩ Việt Nam thấy NGÀY TRỞ VỀ của Phạm Duy được công chúng đón rước rất huy hoàng, hoành tráng, có vẻ giống như dân Pháp xưa đón Nã Phá Luân chiến thắng từ châu Phi trở về… bèn nóng mặt, ghét cay ghét đắng mà hè nhau ném đá vào Phạm Duy, toàn những cục đá vu cáo chính trị to bằng nắm tay, có vẻ muốn khích nhà cầm quyền cấm tiệt nhạc Phạm Duy, hay giam lỏng ông cho nhạc cách mạng của các ông nhạc sĩ bất tài lên ngôi…

Mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy tại quốc nội, nhạc sĩ kiêm nhà báo Nguyễn Lưu ( con trai nhân sĩ Nguyễn Xiển 1907-1997, từng là tổng thư ký đảng xã hội Việt Nam, phó chủ tịch ban thường vụ quốc hội Việt Nam) viết trên báo “ Đầu tư” ngày 13-3-2006 bài : “Không thể tung hô” như sau :

“Tôi muốn nói đến trường hợp của nhạc sĩ Phạm Duy, người mới được xưng tụng sau đêm nhạc “Ngày trở về” (diễn ra tại Nhà hát Hòa Bình, TP.HCM). Một người bạn, nhà văn Chu Lai đã tỏ ra tâm đắc với ý tưởng này và cho biết, Tạp chí Thế giới mới số mới nhất có đăng một bài viết, với nội dung gói gọn: “Một người từng bỏ kháng chiến theo thực dân Pháp, khi Pháp rút lại theo Ngô Đình Diệm và khi ngụy quyền sụp đổ lại chạy qua Mỹ. Và tại đó, đã viết hàng loạt bài kêu gọi chống Cộng, với giọng điệu “sặc mùi” hiếu chiến. Nay, thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại xin trở về! Hà cớ gì phải tung hô, xưng tụng đến như thế!“.

http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/200611/142394.aspx

Cũng trên bài báo này, nhạc sĩ Nguyễn Lưu quy chụp chính trị nhạc sĩ Phạm Duy bằng đòn vu khống chính trị bịa đặt trắng trợn như sau :

“Đỉnh cao” sự nghiệp chống Cộng của Phạm Duy là bài Mùa thu chết. Ở đó, tác giả đã công khai tư tưởng chống Cộng của mình. Ông ta đã từ bỏ tình yêu với Tổ quốc bằng một bút pháp thật sâu cay, đểu giả và ít ai quên cái mùa thu trong ca khúc ấy chính là Cách mạng mùa thu, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. (Bài báo Không thể tung hô của tác giả Nguyễn Lưu đăng trên Báo Đầu tư ngày 13.3.2006 )

Xin nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu coi lại xuất xứ bài hát này của nhạc sĩ Phạm Duy: “Mùa thu chết” rất nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy là phổ thơ của thi hào Pháp Apollinaire (1880-1918) . Bài thơ của Apollinaire chỉ có 5 câu, mang tựa đề L’Adieu (Vĩnh biệt),  nguyên văn:

J’ai cueilli ce brin de bruyère

L’automne est morte souviens-t’en

Nous ne nous verrons plus sur terre

Odeur du temps brin de bruyère

Et souviens-toi que je t’attends

Tạm dịch:

Ta ngắt một cành thạch thảo

Em hãy nhớ cho mùa thu đã chết rồi

Chúng ta không còn được nhìn nhau nữa trên đời

Mùi thời gian đẫm hương thạch thảo

Em hãy nhớ rằng ta vẫn chờ em

Căn cứ trên giấy trắng mực đen vừa dẫn trên, Nguyễn Lưu cần phải viết thêm một bài lên án chính tác giả bài thơ là thi hào Apollinaire – người đã mất từ năm 1918 – chính là người đã “chống cộng” vì dám bảo Mùa thu cách mạng tháng tám 1945 ĐÃ CHẾT, chứ nào phải Phạm Duy…Chưa từng thấy sự xuyên tạc văn bản nào trắng trợn và hèn hạ, dốt nát  hơn sự xuyên tạc của ông Nguyễn Lưu với bài thơ phổ nhạc “Mùa thu chết” này…

Nguyễn Lưu còn kéo thêm các nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, nhạc sĩ  Tân Huyền vào băng nhóm ném đá Phạm Duy chỉ vì trò ghen tức, đố kị người tài năng hơn mình, khi thấy quần chúng bày tỏ lòng yêu thích nhạc Phạm Duy một cách cuồng nhiệt trong đêm nhạc “Ngày trở về” như đã nêu trên.

Ngay sau bài mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy của Hội nhạc sĩ Việt Nam do nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu làm tiên phong, đã đến lượt quân đỏ xuất tướng bằng bài viết “Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói” của Khánh Thi trên tờ “ An ninh thế giới” số tháng 4-2009 của Trung tướng công an Hữu Ước. Nhà báo Khánh Thy ghi lại sự phản ứng rất tức giận của ba nhạc sĩ cây đa cây đề trong nước, xin trích vài đoạn sau :

Nhạc sỹ – NSND Trọng Bằng – nguyên tổng thư ký ( tức chủ tịch) Hội nhạc sĩ Việt Nam

Tôi có đọc trên báo thấy có nhiều lời tâng bốc cũng hơi là lạ, không quen.

Dư luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi. Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết ta.

Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc.

NS Phạm Tuyên

. Bởi lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó tìm tòi về mặt sáng tạo âm nhạc ở trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng.

Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng. Sự đóng góp của nhạc sỹ Văn Cao rất phong phú, bây giờ được ghi nhận là người có đóng góp lớn cho đất nước và âm nhạc Việt Nam.

Tôi chỉ có một suy nghĩ nhỏ, chúng ta chúc cho ngày trở về của nhạc sỹ Phạm Duy là một sự trở về của lá rụng về cội. Còn đánh giá về con người, nhất là đánh giá về tác phẩm thì phải rất thận trọng, công bằng và đúng bản chất, một phần nào đó phải có giới hạn. Đừng chạy theo thị hiếu, theo cơ chế thị trường mà quá đề cao sự đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, như vậy mới xứng đáng với lịch sử, với những người đã đổ máu xương cho đất nước, cho dân tộc được có ngày hôm nay.

NS Hồng Đăng

 

Ảnh: T.P.

Nhưng gần đây, báo chí lại rộ lên về những chương trình của Phạm Duy. Tôi cũng nghe rất nhiều người phàn nàn là tác phẩm của Phạm Duy như thế mà báo chí tâng bốc, đề cao đến mức y như là nhân vật số một của âm nhạc Việt Nam hiện nay, và là người nhạc sỹ kỳ tài. Điều ấy là vô lý, như thế không đúng, huống gì lại xem như người có công lớn (?!).

So sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng thích và không phải bài nào công chúng cũng thích.

Trong lúc ấy chúng ta có những tên tuổi lừng lẫy từ Đỗ Nhuận, Văn Cao, Lê Yên, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Hoàng Vân, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, và còn rất nhiều người khác đã gắn bó với những ngày gian khổ, thiếu thốn cùng cực của đất nước chỉ để góp một chút gì của mình cho cuộc chiến tranh vệ quốc.

Từ ngày anh đi, anh Duy ạ, nền âm nhạc của chúng ta đã khác trước nhiều lắm. Từ một đội ngũ thưa thớt thời của anh, giờ đây không biết bao nhiêu tên tuổi nổi lên một cách xứng đáng, có hiểu biết, có tìm tòi, khác xa thời anh bỏ khu III, khu IV mà đi. Tất nhiên anh Phạm Duy có thể kiêu một tý cũng chẳng sao, (thói thường mà)! Nhưng những người hướng dẫn dư luận có lẽ nên nghĩ kỹ một tí, để khách quan hơn, công bằng hơn. Còn riêng một chi tiết nhỏ về chuyên môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm.

  (Khánh Thy thực hiện)

Nguồn : Antgct.cand.com.vn/vi-vn/nhanvat/2009/5/52937.cand

Thiết nghĩ, những phát biểu, những phản ứng đầy ghen tức, đố kỵ rất cảm tính, thiếu lý tính của ba nhạc sĩ trên sau đêm nhạc rất huy hoàng của nhạc sĩ Phạm Duy diễn ra trong nhà hát lớn Hà Nội cuối tháng 3/2009, sẽ mãi mãi là vết nhọ trên gương mặt âm nhạc của ba vị này, không cách gì gột sạch.

Điều tôi băn khoăn là sao nhạc sĩ Phạm Tuyên ( con út cụ thượng Phạm Quỳnh, người từng bị Việt Minh thủ tiêu sau Cách mạng tháng tám 1945) một người điềm đạm, chín chắn, một trí thức con dòng cháu giống, danh gia vọng tộc, sao lại đi phát ngôn những lời ghen ăn tức ở, ganh tài lộ liễu hơi bị tầm thường với nhạc sĩ Phạm Duy thế ? Xưa nay, tôi từng quý mến anh Phạm Tuyên ( người đã phổ nhạc bài thơ thiếu nhi “ Mèo đi guốc” của tôi, cũng như nhạc sĩ Nguyễn Lưu, người cũng đã từng phổ nhạc bài thơ Kôn Tum của tôi tức TMH)

http://my.opera.com/khaisang2002/blog/2009/07/01/pham-duy

Chính ra, nhạc sĩ Phạm Tuyên – người có nhiều nét tương đồng hoàn cảnh với nhạc sĩ Phạm Duy, hơn ai hết phải biết cảm thông với vị nhạc sĩ “ ba chìm bảy nổi chín lênh đênh” do các trào lưu chính trị xô đẩy suốt mấy chục năm này, sao lại đi ném đá vào người có số phận éo le như mình thế ? Phạm Tuyên đi theo cách mạng bằng mặc cảm tự ti đầy mình, nhục nhã vô hạn với một lý lịch xấu nhất nước : con đại phản động ( Phạm Quỳnh)  bị cách mạng xử bắn, đã phải nhún nhường làm thân phận con sâu cái kiến, đấm ngực ăn năn tội bằng các bài hát “ yêu đảng vượt chỉ tiêu trên giao” suốt mấy chục năm mới được vào đảng…Nhưng thôi, chúng tôi không nói nữa, vì anh Phạm Tuyên còn cả nghĩ hơn tôi nhiều…

Văn hào nước Áo gốc Do Thái Stefan Zweig ( 1881-1942), người đã cùng với vợ là bà Lotte tháng 2 năm 1942 tại Rio de Janeiro, đã làm cuộc tự tử chính trị, bằng cách hai ông bà tự nguyện chết trên ghế điện trong tâm trạng cô đơn tuyệt vọng, để phản đối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai vô nhân đạo do Hítle gây ra, đã từng có câu nói nổi tiếng : “Thân phận con người trong thế kỷ hai mươi là thân phận con người chính trị”.

Ở Việt Nam, ngót 70 năm qua, không chỉ nhạc sĩ Phạm Duy mà đến con kiến cũng phải mang thân phận chính trị. Từng con người Việt Nam mang thân phận bao cát treo lủng lẳng để các tay boxe chính trị  thi nhau đấm như mưa trong các cuộc tập dượt đấu quyền anh cách mạng, quyền anh chiến tranh…

Phạm Duy  mang thân phận bao cát treo lủng lẳng trước những cú đấm tập dượt trời giáng của các tay quyền anh chính trị từ cả hai phía đỏ và xanh, khiến ông bị xô dạt từ bờ chính trị này sang bờ chính trị khác mà không sao chủ động…

Các  nhà “bới móc học” từng cho xem tấm ảnh Phạm Duy mặc bộ đồ bà ba đen của một chiêu hồi viên đứng trên nền nhạc “ Giọt mưa trên lá” để công bố tin chấn động thế giới rằng, tay “tắc kè chính trị” này từng chống cộng khét tiếng đấy à nha…

Có thể trong cuộc đời riêng, vì hoàn cảnh sống đưa đẩy tới chân tường, bắt buộc Phạm Duy phải bị chính trị hóa, nhưng âm nhạc của ông, tuyệt đại đa số các bài hát hay nhất không hề bị chính trị hóa. Có thể ông đã phải mặc bộ đồ bà ba đen của viên chức trong bộ chiêu hồi, nhưng bài hát “ Giọt mưa trên lá” của ông là một kiệt tác âm nhạc không hề phục vụ chính trị, rất khác các bài hát của mấy nhạc sĩ vừa ném đá ông trong chế độ miền Bắc, luôn luôn lấy âm nhạc phục vụ chính trị làm mục đích…

Âm nhạc Phạm Duy đạt được giá trị muôn đời vì đã vượt lên trên các đối kháng chính trị nhất thời. Ấy là cái khác nhau một trời một vực giữa Phạm Duy và Phạm Tuyên vậy.

Nếu cứ lấy lăng kính đạo đức, lăng kính chính trị để soi lên cuộc đời các ông to bà lớn của cả hai phía quân xanh quân đỏ, chúng ta đều chỉ nhìn thấy những âm bản thê thảm mà thôi. Lấy lăng kính chính trị, lăng kính đạo đức ra soi mói cuộc đời riêng của Phạm Duy, rồi phủ nhận sự đóng góp vô cùng to lớn cho dân tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam bằng âm nhạc yêu nước, yêu con người, yêu nhân loại hết cỡ của ông, như hai phía của cực đoan chính trị vừa hùa nhau ném đá ông kể trên, thiết nghĩ là một việc làm thiếu lương thiện.

Trong bộ sách hồi ký đồ sộ của mình, Phạm Duy cũng thừa nhận ông có tài, có tật, ông cũng như ai tham sân si, cũng ăn chơi hút sách cờ bạc…trai gái; nhưng không có rượu chè bê tha à nha. Vụ “ăn chè nhà Bè” là vụ báo chí chơi xỏ ông, bịa đặt thêm mắm thêm muối để đưa tin rẻ tiền cốt bán báo. Chẳng nhẽ, ông không có quyền mời ca sĩ Khánh Ngọc ( một bên là dâu, một bên là rể của đại gia đình họ Phạm) đi quán café để bàn chuyện chuyên môn giữa nhạc sĩ và ca sĩ hay sao ?

Những người ném đá Phạm Duy thường cho ông là người mục hạ vô nhân, khinh người, khinh đồng nghiệp hơn mẻ. Trong hồi ký của mình, Phạm tiên sinh đã nhiều lần cám ơn các nhạc sĩ đã mở đầu nền tân nhạc Việt từ Nguyễn Văn Tuyên đến Đặng Thế Phong. Có cơ hội là ông tìm cách ca ngợi đồng nghiệp. Trong bài hát “ Yêu tinh tình nữ” có câu hát nguyên văn như sau : “Yêu tinh tình nữ thường hát cho tôi nghe bài ca tiền chiến của Đặng Thế Phong hay Văn Cao tuyệt vời”.

Phạm Duy viết về Văn Cao trong hồi ký :

“Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngă vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng.”

http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Duy

Trong hồi ký Thời Cách mạng kháng chiến của Phạm Duy, ông viết :

“Bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại. Văn Cao luôn luôn là một người khai phá và là cha đẻ của loại Trường Ca” (Cali, 1989, tr.121)

Con tàu đất nước hôm nay dường như đang mất thắng, có cơ đâm vào chân tường diệt vong bởi nạn nội xâm và giặc ngoại xâm đe dọa, nơi đời sống tâm hồn dân tộc đang bị tha hóa cực độ, gần như các giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc thời Thơ Mới, thời văn chương Tự lực văn đoàn đang có cơ sụp đổ,  thì việc xuất hiện lại những bài hát đầy nhân bản của Phạm Duy trong nền nhạc Việt hôm nay, hình như đang cho chúng ta cái cơ hội mong manh để hi vọng.

Phạm Duy, tượng đài lớn nhất của nền tân nhạc Việt Nam đang cùng các tượng đài Văn Cao, Trịnh Công Sơn …sừng sững dưới vòm trời văn học nghệ thuật dân tộc, cùng các tượng đài thi ca xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…sẽ mãi mãi trường tồn tới muôn vàn mai hậu.,.

 

Sài Gòn ngày 07-01-2013/ Trần Mạnh Hảo

(Nguồnhttp://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2013/01/07/pham-duy-con-domuon-doi/ )

 

Nhãn: , ,

Facebook

Facebook

 

 

 

– Cậu nghĩ thế nào về facebook?

 

– Hay!

– Hay là sao?

– Hay là hay chứ hay là sao nữa!

– Nói cụ thể hơn xem nào!

– Này nhé: Trang blog miễn phí, có thể trò chuyện chát chít với nhau, có thể đọc thơ, đọc truyện, tản văn, xem ảnh, nghe ngóng thế sự… tất tần tật!

– Ờ! Công nhận cậu qúa đúng! Thế còn dở?

– Ở đâu mà chả có cái hay cái dở. Sao cậu lắm chuyện thế?

– Thế theo cậu thì hay không chê vào đâu à?

– Không phải! Theo mình có cái dở là gửi bài rồi thì không sửa được, bút sa gà chết! Chỉ sửa được ngày và địa điểm, còn không sửa nội dung được! Muốn sửa nội dung thì chỉ có cách là xóa đi thôi. Lại nữa,  không có bình luận “chờ kiểm duyệt”, vì vậy nhiều khi bực mình vì cảm nhận thiếu văn hóa, phải khi vào blog thì mới xóa được, trong khi mình vắng mặt đã có biết bao nhiêu người phải đọc nó! Lại nữa, chỉ khi đăng nhập mới thấy blog của mình và mọi người, lại cũng chỉ hạn hẹp trong mối quan hệ bạn bè, trong một nước… Lại nữa, từ “kết bạn” nhiều khi cũng bực mình vì có người nghĩ phải là bạn thân hay có tình cảm với nhau thì mới kết bạn, nên đã có cảm nhận thiếu suy nghĩ, thiếu văn hóa… đúng ra nên dùng là “theo dõi” thì hay hơn.

 

– Chí lý! Giá mà facebook điều chỉnh lại được mấy cái thiếu sót đó thì…

 

– Thì tuyệt!

 

9.1.2013/Trần Kim Lan

TB: Cái dở “Gửi bài thì không thể sửa được”, ngày hôm qua (28.9.2013) đã được khắc phục! Hoan hô Facebook! Chỉ còn “cảm nhận chờ xét duyệt” mà được khắc phục nữa, thì người dùng FB sẽ cảm thấy an toàn hơn, yên tâm hơn! Gắng lên Facebook! Cảm ơn FB!

 

Nhãn: , ,

Cuộc gọi đầu năm

Cuộc gọi đầu năm

 

  – Reng! Reng! Reng” Tiếng chuông điện thoại kêu rộn rã.

 

– Ai vậy nhỉ? Tôi giật mình tự hỏi

– Hello! Hello! Hello! Đầu kia im re.

Tôi bỏ máy và nghĩ chắc ai gọi nhầm số hay “ai đó” muốn nghe giọng nói của tôi mà không muốn cho tôi biết chăng?

Tò mò mở xem số điện thoại, thì thấy hiện số đầu từ Việt Nam, nhưng số lạ. Vội mở máy cầm tay và bấm theo số máy vừa hiện lên.

– Hello! Ai ở đầu giây đó ạ? Tôi hỏi

– Minh đây! Tiếng trả lời từ đầu giây bên kia.

– Minh nào? Tôi không nhận ra giọng nói của ai cả.

– Có phải Lan gọi cho Minh không? Bên kia hỏi lại.

– A! Có phải Minh bạn phổ thông đó không? Tôi reo lên hỏi.

– Ừ! Đúng rồi! Có việc gì không?

– Không có việc gì cả! Gọi hỏi thăm bạn cũ thôi! Thế Minh khỏe không? Mọi chuyện tốt lành cả chứ? Tôi hỏi.

– Ừ! Tốt lành cả! Còn Lan thế nào?

– Cũng không có gì đặc biệt cả. Năm vừa rồi về thăm quê, muốn gặp bạn mà nghe nói bạn bận lắm khó mà tiếp xúc được với bạn! Cũng thử gọi cho bạn một lần khi ở Hà Nội nhưng không ai cầm máy, nghĩ chắc số điện thoại từ lâu, có thể thay đổi, nên không gọi nữa. Hôm vừa rồi mới chép lại danh sách tên của các bạn học cũ, mà Cẩm đưa cho, nhìn thấy số của bạn, mới thử gọi lại, may gặp con gái bạn nên mới để lại số điện thoại. Chắc bạn cũng không ngờ là mình nên mới gọi kiểm tra xem, đúng không? Tôi nói.

– Ừ! Mình cũng bận lắm, lại cũng không được khỏe, nhiều bệnh lắm! Minh trả lời.

– Các bạn cũng nói vậy, nói chuyện đìện thoại được với Minh khó lắm! Ấy thế mà sao mình lại may thế? Đầu năm chúc bạn và gia đình mọi sự như ý, tài lộc dồi dào, may mắn, hạnh phúc nghe! Tôi nói.

Tôi hỏi Minh có hay gặp các bạn cũ và thầy giáo chủ nhiệm không, Minh nói Minh bận và không được khỏe nên không biết tin gì…

– Chúc bạn năm nay dồi dào sức khỏe, sớm về thăm quê hương! Thế nhé, có gì nói chuyện sau nhé! Minh nói.

– Ok! Tạm biệt Minh! Hẹn có dịp khác nói chuyện lâu hơn.

– Tạm biệt!

– Tạm biệt!

 

Năm mới và cũng là ngày sinh của tôi năm nay vui khác thường vì có cuộc nói chuyện qua điện thoại xuyên hai đầu thăm thẳm của trái đất, lại là với người bạn học từ thời học cấp III, thời gian sơ tán gian nan, vất và cơm độn với bột mì hẩm toàn sâu mọt… bom bi Mỹ, đạn lạc cũng đã từng rải mấy viên lên thân thể một số bạn học cùng lớp với tôi và mấy ngôi nhà dân bị bốc cháy… đó là những ngày chúng tôi hoang mang, hoảng sợ nhất. Nhiều bạn tính chuyển trường, bỏ học. Nhưng nhờ sự động viên của các thấy cô giáo và bạn bè, chúng tôi yên tâm trở lại và lao vào học. Và thương nhất là mấy bạn bị thương, trường cách xa thành phố Hà Nội mấy chục cây số, chẳng có phương tiện gì, các anh chị và các bạn phải thay nhau khiêng cáng các bạn bị thương, chạy bộ về đô thành để kịp cấp cứu. Ơn trời, tai qua nạn khỏi, các bạn chỉ bị thương nhẹ và sau đó lại tiếp tục trở về theo học như không có chuyện gì xảy ra.

Tôi kể chuyện nói chuyện điện thoại với Minh cho Sĩ qua e-mail, cũng là bạn cùng học với tôi và Minh. Sĩ viết:

– Vậy là Lan may mắn lắm đó! Sĩ ở gần Minh mà lâu lắm có nói chuyện được với Minh đâu!

– Ồ! Thế mình thật là may mắn! Tưởng gần mà xa, ngỡ xa lại hóa gần! Tôi viết.

 

Lớp học của chúng tôi chỉ có hơn ba mươi người thôi, nhưng vui lắm. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, chúng tôi mỗi người mỗi ngả, chỉ có vài năm đầu thì theo đúng hẹn chúng tôi gặp nhau vào ngày mùng 2 Tết tại nhà thầy giáo chủ nhiệm, sau đó… thì khó mà thực hiện được hẹn ước nữa, vì thầy giáo, chuyện gia đình cũng không được vui… và chúng tôi thì mỗi người một nơi, nên hầu như ít biết tin về nhau. Khóa chúng tôi học, phần lớn được xếp đặt vào ngành sư phạm, vì lúc này ngành sư phạm thiếu rất nhiều giáo viên…Thời kỳ đó, chúng tôi không được chọn ngành nghề theo nguyện vọng hay khả năng của mình mà “đặt đâu thì ngồi đấy”. Biết làm sao? “Thời thế thế thời thời phải thế” mà! Chỉ một số được theo các ngành khác, trong đó có Minh. Một số thì đi bộ đội, du học. Có bạn đã hy sinh ngay những ngày đầu nhập ngũ… Tôi nghe nói Minh thành đạt trong cuộc sống và sự nghiệp thương trường, thuộc cỡ “đại gia”! Mừng cho bạn!

Mừng vui vì cuộc điện thoại bất ngờ đầu năm, nhìn mưa xuân lất phất rơi, mặc dù trời vẫn còn lạnh, thời tiết đã sang xuân… nàng thơ chắp cánh:

 

Điện thoại bất ngờ

 

Mấy chục năm ròng vẫn nhớ nhau

Bất ngờ điện thoại nối vui sầu

Tháng năm cách biệt tình còn đượm

Giây phút trùng phùng nghĩa vẫn sâu

Người cũ Từ Vân sơ tán thuở

Trường xưa Đoàn Kết tạm dung cầu

Bom bi đạn lạc không rời lớp

Mãi nhớ thầy cô mãi nhớ nhau.

 

(1.1.2013)

 

Thứ ba ngày 1.1.2013/Trần Kim Lan 

 

Nhãn: , ,

Tìm hiểu: Thiên Chúa ba ngôi

Tìm hiểu: Thiên Chúa ba ngôi

 

Xem tại đây:
 Trụ Ba Ngôi tại OlomoucCộng hòa Czech, một tác phẩm điêu khắc minh họa hình ảnh Ba Ngôi.

Ba Ngôi (Trinity) là Thiên Chúa, theo giáo lý của hầu hết các giáo hội thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo,[1][2] Thiên Chúa là duy nhất, hiện hữu trong ba ngôi vị: Chúa ChaChúa Con và Chúa Thánh Thần (Chúa Thánh Linh).
Về phương diện lịch sử,[1] học thuyết ba ngôi đã được khẳng định là giáo lý chính thức của hội thánh bởi các tín điều (creed) Nicaea (năm 325) và Athanasius (khoảng năm 500) nhằm chuẩn hoá các xác tín khi những bất đồng về thần học nảy sinh trong nội bộ hội thánh. Các bản tín điều này được xác lập bởi hội thánh trong thế kỷ thứ 3 và thứ 4 hầu đối phó với các thuyết dị giáo liên quan đến giáo lý Ba Ngôi cũng như vị trí của Chúa Cơ đốc trong Ba Ngôi. Bản tín điều Nicaea (năm 381) được công nhận bởi Chính thống giáo Đông phương, cũng đượcGiáo hội Công giáo La mã công nhận với một thay đổi và hầu hết các giáo phái Kháng Cách (Protestant) chấp nhận bản tín điều này.
Tín điều Nicaea, cấu trúc căn bản của giáo lý Ba Ngôi, dùng từ “homousia” (trong Hi văn nghĩa là có cùng một bản thể) để định nghĩa mối quan hệ giữa các thành viên của Ba Ngôi. Khi đọc lên, hầu như không có sự khác biệt giữa từ này và một từ khác được sử dụng bởi những người chống thuyết Ba Ngôi, từ “homoiousia” (Hi văn: có bản thể tương tự – ngụ ý có ba thần linh riêng biệt). Sự dị biệt tưởng chừng như rất nhỏ này đã dẫn đến những bất đồng sâu sắc về thần học và những chia cắt không thề hàn gắn trong cộng đồng Cơ Đốc giáo.
 Kinh Thánh và truyền thống
Mặc dù thuật ngữ Ba Ngôi không được tìm thấy trong Kinh Thánh, cũng không hiện hữu cho đến khi được sử dụng bởi Tertullian vào đầu thế kỷ thứ ba,[3] những người ủng hộ thuyết Ba Ngôi tin rằng các khái niệm của học thuyết đã được đề cập đến cách có hệ thống và xuyên suốt trong Kinh Thánh, trong các tín điều và các nguồn khác từ truyền thống giáo hội. Họ chỉ ra ngay từ những trang đầu tiên của Cựu Ước như Sáng thế ký 18.1-16, trong các sách Phúc âm và trong nhiều thư tín được truyền đọc trong vòng hội thánh tiên khởi.
 Bài học vỡ lòng
Tín hữu Cơ Đốc học biết về giáo lý Ba Ngôi khi chịu lễ báp têm (rửa tội). Cũng là bước khởi đầu để thấu hiểu tại sao giáo lý này quan trọng với tín hữu Cơ Đốc, ngay cả khi họ nhận ra rằng học biết về bản thể của Thiên Chúa là vượt quá sự hiểu biết của họ. Bản Tín điều các Sứ đồ, như là bản tóm lược về đức tin Cơ Đốc, ngày càng phổ biển hơn. Bản tín điều này là kiểu mẫu cho sự xác tín giáo lý Ba Ngôi giúp người qui đạo xác chứng niềm tin của họ khi thụ lễ báp têm và vào những dịp khác theo lịch phụng vụ của hội thánh. Họ chịu lễ báp têm “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh” (Mat. 28.19). Cung cách ban thánh lễ báp têm này đã có từ thời kỳ sơ khai của hội thánh, được chép lại trong tác phẩm Didache[4] được thực hành bởi Ignatius,[5] Tertullian,[6]Hippolytus,[7] Cyprian,[8] và Gregory Thaumaturgus.[9] Như thế, cuộc sống tôn giáo cũng như nhận thức của họ về sự cứu rỗi khởi đầu với lời xác chứng liên quan đến Ba Ngôi.
Theo học thuyết Ba Ngôi, cả ba ngôi vị đều tỏ hiện vào lúc Chúa Giê-xu chịu lễ báp têm, “Vừa khi chịu lễ báp têm rồi, Chúa Giê-xu vừa lên khỏi nước, kìa, các tầng trời mở ra, Ngài thấy Thánh Linh của Thiên Chúa ngự xuống như chim bồ câu và đậu trên Ngài; Tức thì, có tiếng từ trời phán rằng, Này là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng” (Mat. 3.16-17). Đối với những tín hữu tin vào thuyết Ba Ngôi, ba thân vị của Ba Ngôi đã hiển lộ cùng một lúc vào dịp cử hành lễ báp têm.
 Đời sống Cơ Đốc và Ba Ngôi phước hạnh
Tính duy nhất của bản thể Thiên Chúa cùng tính đa nguyên huyền nhiệm của ba ngôi giải thích bản chất của sự cứu rỗi và bày tỏ sự sống vĩnh cửu. “Ấy là nhờ Chúa Con mà chúng ta được phép đến gần Chúa, trong một Chúa Thánh Linh” (Eph.2.18). Mối tương giao với Cha là mục tiêu của cuộc sống Cơ Đốc, có được qua sự hiệp nhất của Thiên Chúa với bản thể nhân tính trong Chúa Giê-xu Cơ Đốc. Giê-xu là Thiên Chúa nhưng nhận lấy cái chết của một con người để cứu chuộc người có tội, hầu cho tín hữu nhận lãnh sự tha thứ và tình bằng hữu của Thiên Chúa qua sự vận hành của Chúa Thánh Linh, đấng làm Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết, cũng là đấng thấu hiểu Thiên Chúa (vì Giê-xu là Thiên Chúa), soi dẫn và ban năng lực cho tín hữu để họ có thể thực thi ý chỉ của Thiên Chúa. Như thế, giáo lý này ảnh hưởng đến mọi phương diện trong đức tin và sống đạo của tín hữu Cơ Đốc. Cũng dễ hiểu khi có nhiều người, suốt theo dòng lịch sử Cơ Đốc giáo, đã tranh đấu quyết liệt để bảo vệ nó.
  Một Thiên Chúa
Thiên Chúa là thực thể duy nhất. Cựu Ước xem xác tín này là trọng hơn hết. Đi cùng với nhiều lời cảnh báo, xác tín ấy là sự đòi hỏi tối hậu cho sự tuân giữ giao ước với Thiên Chúa. “Hỡi Israel, hãy lắng nghe, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa duy nhất” (Phục truyền 6.4), “Trước mặt ta ngươi chớ có các thần khác” (Phục truyền 5.7) và “Thiên Chúa, là Vua và Đấng cứu chuộc của Israel, là Chúa toàn năng phán rằng: Ta là đầu tiên và cuối cùng, ngoài ta không có Thiên Chúa nào khác.” (Isaiah 44.6). Theo quan điểm của học thuyết Ba Ngôi về Cựu Ước, bất kỳ giáo lý nào không tập chú vào khái niệm Thiên Chúa độc tôn mà khuyến khích thờ phụng các thần linh khác bên cạnh Thiên Chúa, hoặc hình dung Thiên Chúa được tạo dựng chứ không phải là đấng tự hữu hằng hữu thì không thể là con đường dẫn đến sự hiểu biết chân xác về Thiên Chúa. Quan điểm tương tự cũng được tìm thấy trong Tân Ước “chỉ có một Thiên Chúa, không có thần nào khác” (I Cor.8.4).
Ba ngôi tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và một quyền năng như nhau, nên ba ngôi chỉ là một Chúa mà thôi.
 Thiên Chúa hiện hữu trong ba ngôi vị
Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong ba ngôi vị (Hi văn: hypostases). Chúa Cha chỉ có một bản thể thần thượng. Tín hữu Chacedon, Công giáoChính Thống giáo và hầu hết tín hữu Kháng Cách (Protestant) tin rằng Thân vị thứ Hai trong Ba Ngôi – Chúa Con, Giê-xu – mang lấy bản thể con người, vì vậy Chúa Giêxu có hai bản thể.Giê-xu hoàn toàn là Người mà cũng hoàn toàn là Thiên Chúa.
Ba Ngôi bình đẳng, đồng tồn tại vĩnh cửu, có cùng một bản thể, quyền bính, hành động và ý chí. Tuy nhiên, như đã xác lập bởi bản tín điều Anathasisus, Thiên Chúa là đấng tự mình mà có không do ai tạo thành người không có khởi đầu và không có kết thúc, Người là alpha và omega. Chúa Con được sinh ra từ Chúa Cha. Chúa Thánh Linh lưu xuất từ Chúa Cha (hay từ Cha và Con).
Tuy còn nhiều tranh luận nhưng một luận giải được nhiều người yêu thích cho rằng bởi vì Thiên Chúa hiện hữu trong ba thân vị, Chúa luôn luôn yêu thương, và luôn luôn có mối giao hoà trọn vẹn giữa ba ngôi vị. Do đó, Thiên Chúa không cần phải tạo ra con người hầu Chúa có thể có cơ hội trò chuyện hoặc yêu thương. Chúa đã có rồi. Là một thực thể trọn vẹn, Chúa không cần tạo dựng con người để bù đắp sự thiếu thốn hoặc khiếm khuyết của Chúa như nhiều người vẫn nghĩ. Thêm vào đó, theo Tiến sĩ Thomas Hopko, nếu Thiên Chúa không phải là Ba Ngôi, Chúa không thể trải nghiệm tình yêu thương trước khi Chúa tạo dựng các thực thể khác (con người) và yêu họ. Sáng thế ký 1.26 chép rằng “Chúng ta hãy tạo nên con người theo hình ảnh chúng ta”. Cần nên lưu ý rằng người Do Thái không hiểu từ “chúng ta” ở đây theo nghĩa số nhiều ngụ ý các thân vị trong Ba Ngôi, họ cho đây chỉ là một cách dụng ngữ nhằm bày tỏ sự tôn kính.
Tên của Thiên Chúa được đề cập trong Sáng thế ký trong tiếng Hêbrơ là El hoặc Elohim. Elohim là danh từ số nhiều nhưng có nghĩa số ít khi được dùng để chỉ Thiên Chúa. Tuy nhiên, theo học thuyết Ba Ngôi, Sáng thế ký 1.26 nhấn mạnh tính đa nguyên của Thiên Chúa, trong khi trong câu 27 kế tiếp, tập chú vào tính hiệp nhất của bản thể Thiên Chúa. Vì vậy, theo ngữ nghĩa, từ Elohim biểu lộ bản chất của Ba Ngôi.
 Đồng cư trú
Một cách luận giải tương đối khó hiểu nhưng hữu dụng nhằm giải thích sự tương quan giữa ba ngôi vị của Thiên Chúa gọi là tính bao hàm hỗ tương (perichoresis). Khái niệm này đặt nền tảng trên Phúc âm John 14.17 khi Chúa Giêxu giải thích cho các môn đồ hiểu tại sao Chúa phải rời xa họ. Giê-xu đi đến cùng Cha vì điều đó ích lợi cho họ, như thế Chúa có thể ở trong họ khi “Đấng An ủi” (Chúa Thánh Linh) được ban cho họ. Chúa Giêxu tỏ cho họ biết Ngài ở trong Cha, Cha ở trong ngài và cả hai đều ngự trong họ. Như thế, theo thuyết bao hàm hỗ tương, ba ngôi vị “chứa đựng lẫn nhau hầu cho mỗi ngôi vị luôn luôn bao hàm và đồng thời luôn luôn được bao hàm”.
Tính đồng cư tỏ ra hữu ích khi giúp minh họa khái niệm ba ngôi vị tham gia vào sự cứu chuộc loài người. Ích lợi thứ nhất là giúp loại trừ ý tưởng Thiên Chúa có ba phần. Thuyết Ba Ngôi khẳng định Thiên Chúa là thực thể đơn, không phải là thực thể cộng dồn. Thiên Chúa không bị chia cắt thành ba phần. Lợi ích thứ hai là cách luận giải này tỏ ra phù hợp với học thuyết cho rằng sự hiệp nhất của tín hữu với Chúa Con trong nhân tính của Chúa sẽ giúp họ hiệp nhất trọn vẹn với các thân vị khác trong Ba Ngôi, bởi vì cả ba đồng cư trú trong nhau. Thuyết bao hàm hỗ tương cũng giúp chúng ta hình dung dễ dàng hơn ý nghĩa ẩn chứa trong thuyết Ba Ngôi. Chúa Con, là Ngôi Lời từ thuở ban đầu, trong vĩnh cửu, là chỗ cư trú của Thiên ChúaChúa Con là chỗ ở của Cha, do đó Con ở trong Cha và Thánh Linh khi Thánh Linh đến cùng các môn đồ như lời Chúa Giê-xu bảo họ trước đó, “Ta không để các ngươi mồ côi đâu, vì ta sẽ đến cùng các ngươi.” Dù vậy , vẫn có nhiều ý kiến cho rằng vấn đề Chúa Ba Ngôi là một bí mật đối với con người.
 Được sinh ra, không được tạo nên
Luận giải về sự kiện Con được sinh ra chứ không được tạo dựng dựa vào sự khác biệt về bản thể của tạo vật và bản thể của thần linh. Vì Con được sinh ra, không được dựng nên, bản thể của Chúa Con là của Thiên Chúa. Công cuộc sáng tạo hình thành qua ngài, nhưng ngài không dự phần vào cho đến thời điểm ngài trở nên con người.
Các giáo phụ thường dùng phép tương đồng để giải thích ý tưởng này. Irenaeus xứ Lyon, nhà thần học sống vào thế kỷ thứ 2 viết “Cha là Thiên Chúa, Con cũng là Thiên Chúa, vì bất cứ ai sinh ra từ Thiên Chúa là Thiên Chúa”.
Justin Martyr nói “tương tự như lúc chúng ta quan sát một ngọn lửa, khi khơi thêm một ngọn lửa khác, nó chẳng hề suy giảm nhưng vẫn y như cũ; trong khi ngọn lửa mới tự tồn tại. Cũng vậy, Ngôi Lời là Thiên Chúa được sinh từ Cha là cha của muôn loài”.
Tuy nhiên, mọi lời luận giải về Ba Ngôi đều có giới hạn, vì đây là một vấn đề thuộc về lãnh vực thần bí. Sự khác biệt giữa người ủng hộ và chống đối thuyết này là chấp nhận hay bác bỏ sự huyền nhiệm. Người chấp nhận sử dụng đức tin mà tin, người bác bỏ thì không.
Các bất đồng
Tuy hầu hết tín hữu Cơ đốc tin rằng học thuyết chính thống về Ba Ngôi là tâm điểm của đức tin Cơ Đốc, rằng bác bỏ thuyết này đồng nghĩa với sự bác bỏ toàn bộ đức tin Cơ Đốc, cho đến nay vẫn có vài nhóm khước từ nó. Dù tự nhận mình là người Cơ Đốc, họ khước từ công nhận học thuyết Ba Ngôi trong bất kỳ hình thức nào và tin rằng quan điểm của họ đã hiện hữu từ trước công đồng Nicaea. Một số giáo phái cổ như Ebonite cho rằng Chúa Giêxu không phải là “Con Thiên Chúa”, nhưng chỉ là một người bình thường trở nên nhà tiên tri. Các giáo phái khác như Cơ Đốc Phục lâm, Chứng nhân Jehova, Cơ Đốc Khoa học, Duy nhất Thần giáo và Ngũ Tuần nhất thể (Oneness Pentecostal), dù có quan điểm khác nhau về Thiên Chúa, đều khước từ thuyết Ba Ngôi.
(Sưu tầm)
 
1 bình luận

Posted by trên 10.12.2012 in Sưu tầm

 

Nhãn: ,

Hành hương giáo đô Roma nhân dịp năm Thánh 2000

 Truyện ký: (nhật ký-hồi ký): Hành hương giáo đô Roma nhân dịp năm Thánh 2000

(18-4/27-4-2000)

Thứ ba ngày 18-4-2000

_MSC_CLICK_TO_OPEN_IMAGE

Sau hàng tuần lễ lo chuẩn bị sắp xếp hành lý, hôm nay, Hương bắt đầu khởi hành chuyến hành hương đặc biệt mong mỏi trong cuộc đời Hương.
Chuyến đi khởi hành từ Borsum, do cha Linh mục Việt Nam hướng dẫn, cùng với bốn mươi bốn người từ nhiều cộng đoàn Công giáo khác nhau ở Đức. Phần lớn, các bác, các anh chị đã đến Borsum từ tối hôm trước. Đúng năm giờ sáng, xe bus tới. Hành lý được nhanh chóng xếp lên xe với sự giúp đỡ của một số bạn trẻ và khoảng mười lăm phút sau, xe bắt đầu chuyển bánh.

Vì khởi hành lúc sáng sớm, nên sau khi lên ô tô, mọi người tiếp tục ngủ. Hương mơ màng nghĩ đến chàng, vì trước khi đi mấy ngày, Hương có ấn tín hiệu cho chàng, nhưng không nhận được hồi âm. Hương hơi buồn vì điều đó. Hương biết giữa Hương và chàng, sợi dây tình đã đứt, nhưng Hương chưa thể dễ dàng quên chàng ngay được. Nỗi buồn chỉ thoáng qua vì mắt đã díu lại muốn ngủ và nhường chỗ cho niềm vui háo hức được đến Roma… Hương mơ màng thiu thiu ngủ và chợt bừng tỉnh vì tiếng mọi người ồn ào… Khoảng chín giờ sáng, xe dừng lại nghỉ. Mọi người ăn sáng, có bánh mì kẹp nhân thịt, giò chả do cha Tuyên uý và một số các bác, các anh chị chuẩn bị. Bữa ăn thật ngon miệng. Xe lại bắt đầu chuyển bánh. Chúng tôi cùng cha Tuyên uý dâng kinh cầu nguyện sáng, đọc kinh Mân côi, cầu xin Chúa, cầu xin Đức Mẹ ban bình an cho chuyến đi. Chuyến đi hoàn toàn thuận lợi, nhanh chóng, an toàn. Khoảng sáu giờ chiều, xe bus đưa chúng tôi tới Gardasee. Mọi người đều khỏe mạnh, vui vẻ. Sau bữa ăn tối, cha Tuyên uý cùng chúng tôi dâng Thánh lễ. Mọi người đi ngủ sớm để sáng sớm mai tiến về Thánh đô Roma. Cha Tuyên úy cùng một số người đi dạo thăm vùng đồi núi, có hồ rất nên thơ, khách sạn mang tên “Địa đàng nhỏ”, phong cảnh rất hữu tình, non nước mây trời đẹp như tranh vẽ…

Thứ tư ngày 19-4-2000

Khoảng tám giờ tối, xe tới nhà nghỉ ở ngoại ô Roma. Chúng tôi trọ ở nhà dòng Camallo. Là nhà dòng, nhưng vừa là khách sạn, gồm nhiều tầng. Thày dòng và các sơ vừa là tu sĩ, vừa là nhân viên phục vụ ăn uống, bếp núc… Chúng tôi được tiếp đón rất nhiệt tình, vui vẻ. Sau bữa ăn tối, cha Tuyên úy cùng mọi người dâng lễ. Ăn tối xong, mọi người về phòng riêng tắm rửa, ngủ sớm để sáng sớm lại tiếp tục lên đường tiến về Roma.

Thứ năm ngày 20-4-2000

Bảy giờ sáng, cha Tuyên úy cùng mọi người dâng Thánh lễ và sau đó ăn sáng. Khoảng chín giờ, xe bus đưa chúng tôi tiến về Roma. Cha Tuyên úy đã liên lạc được với Đức ông Thụ và đã xin giấy phép cho xe bus được đậu ở bãi xe gần đền Thánh Pietro. Đó là một ưu tiên đặc biệt cho phái đoàn. Chúng tôi hoan hỉ tiến về Roma. Dọc đường, cha Tuyên úy cùng chúng tôi dâng kinh cầu nguyện, đọc kinh Mân côi. Xe chạy bon bon, thẳng tiến về Roma, không gặp bế tắc giao thông. Tiến về Roma có nhiều ngả đường. Đường nào cũng rộng. Xe cộ chạy như mắc cửi, nhưng không bị ứ đọng. Thật đúng là “Mọi con đường đều dẫn đến Roma!”. Cha Tuyên úy đọc giới thiệu sơ lược về Roma. Sau mấy tiếng đồng hồ chạy không nghỉ, chúng tôi đã tiến tới quảng trường Thánh Pietro. Rời xe bus, chúng tôi đã được đặt chân lên vùng đất của Giáo đô. Mọi người tíu tít chụp ảnh lưu niệm. Cha Tuyên úy dặn dò mọi người cẩn thận hành trang, kẻo bị mất cắp, nhớ đội mũ, để nếu lạc thì dễ tìm. Trước khi đi, cha Tuyên úy đã đặt mua cho mỗi người một chiếc áo, một chiếc mũ có biểu tượng năm Thánh hai nghìn. Chiếc mũ và áo mầu trắng. Ai cũng đội mũ và “đội quân Việt Nam” rất dễ nhận ra trước đám đông. Chúng tôi xếp hàng để vào đền Thánh Pietro, vùng đất của tòa Thánh Vatican, nơi Đức Giáo hoàng thường chủ lễ. Phải mấy tiếng sau, chúng tôi mới vào được đền Thánh, vì người đông nghịt. Mọi người trật tự xếp hàng, chờ đợi đến lượt mình. Tất cả đều qua kiểm tra. Qua cửa đền Thánh, ai cũng đưa tay chạm vào cửa Thánh, để mong được hưởng Ân toàn xá. Từ già đến trẻ, bất kể là người nước nào, chủng tộc nào, ai cũng có một niềm tin, thành kính như nhau. Vào trong đền Thánh, ai cũng ngắm nghía, trầm trồ khen ngợi vì những công trình nghệ thuật điêu khắc, trạm trổ thật tuyệt vời, thật thiêng liêng… các ”phóng viên, nhiếp ảnh” chụp ảnh lia lịa… vào đây, ai cũng là nhiếp ảnh cả, vì không thể không chụp được trước công trình nghệ thuật tuyệt xảo từ thời Phục Hưng. Sau khi thăm viếng đền Thánh, ai cũng có những phút im lặng, cầu nguyện cho riêng mình, cho gia đình và những người thân… sau đó, cha Tuyên úy, tập hợp mọi người lại, đếm từng người xem có lạc ai không và mọi người được vài tiếng tự do đi xem phố, mua sắm lưu niệm, ăn trưa. Thế nhưng, mọi người đổ xô đi theo cha Tuyên úy, vì cha biết cửa hiệu để mua rẻ. Sau vài tiếng mua sắm, mọi người về xe bus cất qùa mua được, ăn trưa và lại tiếp tục xếp hàng để vào dự lễ cùng với Đức Giáo hoàng. Đức ông Thụ cũng ra gặp và nói chuyện cùng phái đoàn. Hương cũng đã trao bài thơ viết kính tặng Đức Giáo hoàng nhân năm Thánh 2000 nhờ Đức ông Thụ chuyển giúp: (Bài có dịch nghĩa sang tiếng Anh)

Đức Giáo hoàng Johannes Paul II

Người sinh ra ở trên đời
“Để làm ngọn lửa sáng soi nhân tình!”
Người đi hầu khắp hành tinh
“Để gieo ánh sáng hòa bình tương giao!”
Bước chân Người đến nơi nao
“Niềm tin Thiên Chúa, Người trao, Người trồng!”
Gieo mối “liên kết đại đồng”
Để con Thiên Chúa một lòng cùng nhau!
Người hàn gắn vết thương đau
Tị hiềm, ngăn cách thuở nào gây ra…
Nhờ hồng ân Thiên Chúa Cha
“Giữa đời trần thế, Người là Thánh Linh!”

(24-12-1999)

Khoảng từ ba giờ chiều, mọi người tuần tự xếp hàng vào nhà thờ. Người đông chật ních. Cha Tuyên úy được phụ lễ cùng Đức Giáo hoàng, còn mọi người ngồi ngoài quảng trường dự lễ qua truyền hình. Người vào nhà thờ rất đông, bên ngoài chỉ có ít người. Khoảng mười phút, trước Thánh lễ, nhân viện phục vụ có tới mời mọi người vào nhà thờ, không cần vé và cũng không phải kiểm soát nữa. Một số các bác vẫn ở ngoài dự lễ qua truyền hình. Tuy vào được nhà thờ, nhưng tất cả đều phải đứng ở vòng ngoài, vì ghế ngồi đã hết chỗ. Tuy vậy, có người trong phái đoàn cũng may mắn được vào dự Thánh lễ, nơi Đức Giáo hoàng Johannes Paul II chủ lễ rửa chân cho các Môn đệ. Mọi người hết sức xúc động được chứng kiến tận mắt, qua truyền hình, hình ảnh Đức Giáo hoàng đã nhiều tuổi, già yếu, rửa chân, lau chân và hôn chân từng người… như nhắc nhở mọi người, nhớ đến việc làm đầy ân tình của Chúa Giê-su đối với các Môn đệ, cách đây hai ngàn năm. Hương may mắn được ngồi gần, đối diện với nơi Đức Giáo hoàng. Khi Đức Giáo hoàng rửa chân cho các Môn đệ. Hương chụp ảnh lia lịa. Chụp cả các anh lính Thụy Sĩ mũ có chỏm đỏ, đứng im không nhúc nhích. Nhiều tiếng reo cảm động trước việc làm của Đức Thánh Cha “Viva Papa! Papa!” Sau Thánh lễ, cha Tuyên úy cùng một số người lại đếm từng người xem có đủ người không và đoàn chúng tôi lại về khách sạn. Trên đường về, ai cũng vui vẻ, phấn khởi vì đã được dự Thánh lễ. Đặc biệt là ai cũng cảm động vì qua việc làm của Đức Thánh Cha, mọi người cảm nhận được ân tình từ Chúa Giê-su dành cho nhân loại. Về đến khách sạn, mọi người lo ăn uống, tắm rửa và đi ngủ để lấy sức cho hành trình ngày mai.

Thứ sáu ngày 21-4-2000

Sáng sớm, một số người đã dậy để đi xưng tội cùng cha Tuyên úy. Sau đó, mọi người ăn sáng và lại tiếp tục lên đường. Trước hết chúng tôi đến nhà thờ Đức Bà Cả (Santa Maria Maggiore), dâng Thánh lễ tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ đã cho chúng tôi đến Roma bình an… Sau đó, chúng tôi lại lên đường đi thăm hí trường Colosseo. Một hí trường vĩ đại biểu tượng thời Neron… sau đó, đón xe bus công cộng đến đền Thánh Gioan. Công trình xây dựng, kiến trúc đền Thánh cũng rất tinh xảo, tuyệt đẹp với mười hai tượng Tông đồ thật lớn. Sau khi viếng thăm đền Thánh, cầu nguyện chung, chúng tôi qua đường bên kia viếng thang Thánh, để cùng cảm nhận nỗi đau đớn về thể xác mà Chúa Giê-su đã phải chịu đựng. Thang dài, nhiều bậc. Trừ vài người không qùy được, còn chúng tôi cùng nhiều người khác cùng qùy lên thang Thánh. Cùng cảm nhận sự đau nhức đầu gối, mệt nhọc nhấc gối lên từng bậc thang và cùng thở phào nhẹ nhõm khi lên đến bậc thang cuối cùng… qua đó, ai cũng thấm thía nỗi đau mà Chúa Giê-su đã trải qua vì tội lỗi loài người.
Sau đó, chúng tôi có một số giờ tự do. Mọi người lại đi mua sắm qùa kỷ niệm và ăn trưa. Đúng ba giờ chiều lại tập hợp trước quảng trường Thánh Pietro để xếp hàng vào đền Thánh dự lễ. Hôm nay, chúng tôi có vé để vào nhà thờ. Vé từ hôm trước, Đức ông Thụ xin cho chúng tôi. Chúng tôi phải chờ hơn ba tiếng để chờ dự Thánh lễ. Nhà thờ đông chật người. Chúng tôi may mắn được ngồi gần lễ đài. Đi đâu cha Tuyên úy cũng “phất cờ” có hai dải xanh để làm tín hiệu cho chúng tôi nhận ra nhau.”Đội quân” mũ trắng luôn luôn có mặt sớm để có chỗ ngồi. Hôm nay, có một bác ở nhà vì đau bụng, còn tất cả đều khỏe mạnh, hăng hái. Đặc biệt là các bác nhiều tuổi, có bác đầu tóc bạc phơ, trên tám mươi tuổi, thân hình gầy guộc, nhưng vẫn rất khỏe mạnh, vui vẻ. Có cả một chị phải ngồi xe lăn cũng rất hăng hái, luôn luôn đi đầu và được các bạn trẻ đi theo hộ vệ, giúp đỡ.
Hôm nay là ngày lễ tưởng nhớ Chúa Giê-su chịu tử nạn trên cây Thập tự để cứu chuộc tội lỗi của nhân loại. Thánh lễ đã diễn ra hết sức trang nghiêm, thành kính. Mọi người dự lễ đều cảm nhận được nỗi đau đớn của Chúa Giê-su đã phải chịu vì tội lỗi của loài người. Ai cũng thầm cầu nguyện, xin Thiên Chúa thứ tha. Sau Thánh lễ, chúng tôi lại tập hợp nhau, đếm đủ số người, trở về khách sạn. Sau bữa ăn chay, một số người cùng với cha Tuyên úy đi đường Thánh Giá, một số người vì mệt, nên đi ngủ sớm.

Thứ bảy tuần Thánh Roma ngày 22-4-2000

Lễ đêm vọng Phục sinh. Từ sáng sớm, một số người đã dậy đi xưng tội cùng cha Tuyên úy. Sau đó, mọi người ăn uống và lại tiếp tục lên đường. Trước hết, chúng tôi đến đền thờ Thánh Phao Lô ở ngoại thành. Đó là đền thờ cũng được xây dựng từ thời Phục Hưng, với công trình kiến trúc hết sức tuyệt hảo, với nhiều đá qúy. Mọi người cùng cầu nguyện chung, chụp ảnh, mua qùa lưu niệm và sau đó, chúng tôi đến viếng thăm hang toại đạo, nơi ẩn náu và mồ chôn các tín hữu Ki Tô thời sơ khai bị bách hại. Căn hầm sâu khoảng mười lăm mét, kiên cố, rất nhiều đường ngang dọc, có người hướng dẫn để khỏi đi lạc. Thăm hang toại đạo, cảm nhận được đức tin của các tín hữu thời sơ khai thật lớn lao và đã củng cố niềm tin của chúng tôi nơi Thiên Chúa!
Sau đó, chúng tôi lại trở về đền Thánh Pietro và có một số giờ tự do. Khoảng năm giờ chiều, chúng tôi tập trung tại xe bus. Các bác, các chị thay quần áo mới. Nhiều bác mặc áo dài cổ truyền của dân tộc, nhiều mầu sắc, trông ai cũng đẹp, cũng sang, trẻ lại hàng chục tuổi. Thay quần áo, trang điểm xong, chúng tôi lại tập hợp, xếp hàng vào quảng trường, dự Thánh lễ đêm mừng Chúa Phục sinh. Chúng tôi len lỏi được gần lễ đài. Vì đi sớm và phải chờ đợi mấy tiếng đồng hồ mới tới giờ Thánh lễ. Nhưng ai cũng vui vẻ, phấn khởi. Đức Thánh Cha đi từ dưới lên lễ đài trong tiếng vỗ tay, reo hò của mấy chục ngàn người dự Thánh lễ tại quảng trường Thánh Pietro. Những tiếng hô đồng loạt vang dậy đất trời: “Papa! Papa! Viva Papa!”… hàng rừng cờ, hoa phất phới biểu ngữ các nước, cờ các nước được tung bay khắp quảng trường. Sau khi cầu nguyện chung giữa đêm, tiếng chuông nhà thờ đổ dồn, vang dội khắp quảng trường, khắp thành Roma… báo hiệu đêm vọng Chúa Phục sinh đã tới.
Một rừng nến được thắp sáng, cùng với niềm hân hoan vô bờ của các con Chiên của Chúa, hướng về đêm Chúa Giê-su sống lại cách đây hai ngàn năm. Hướng về năm Thánh hai ngàn, năm Hồng ân Chúa ban cho loài người. Các bác, các chị mặc áo dài, khi đêm xuống, dù lạnh (vì ban ngày, thời tiết đẹp, nắng ấm) cũng hòa nhịp với ban nhạc, hát Thánh ca mừng Chúa Phục sinh đến nỗi quên cả lạnh giá. Ra về, vẻ mặt ai cũng hân hoan như vừa nhận được đầy hồng ân Thiên Chúa. Đặc biệt, ai cũng xúc động, vui mừng chứng kiến lễ rửa tội do Đức Thánh Cha chủ trì cho một gia đình người Nhật Bản gồm bố mẹ và cô con gái khoảng năm, sáu tuổi cùng một số người thuộc các nước khác. Trước khi tạm biệt mọi người. Đức Thánh Cha đã đứng trên xe kính đi thêm một vòng nữa vẫy chào mọi người tham dự Thánh lễ trong tiếng reo hò dậy vang trời đất vì mừng vui, vì hạnh phúc.
Về tới nhà dòng thì trời đã khuya. Chúng tôi sửa soạn đi ngủ ngay, vì sáng sớm mai phải dậy sớm dự Thánh lễ Phục sinh ngày Chúa Nhật. Chúng tôi không phải lo ăn cơm tối, vì nhà dòng đã lo cho chúng tôi một túi bánh mì đem theo trước khi đi rồi.

Chúa nhật Phục sinh (Roma 24-4-2000)
Chúng tôi dậy thật sớm, ăn sáng và lại tiến về đền Thánh Pietro, một bác không đi được, vì qúa mệt. Hôm nay, đại lễ Phục sinh, hàng trăm ngàn người tuôn đổ về quảng trường Thánh Pietro. Phái đoàn Việt Nam cùng nhập đoàn với họ, chỗ nào cũng rợp người. Hương may mắn xin được vé ngồi gần lễ đài và quan sát được tất cả. Lại chụp ảnh lia lịa. Hương cố len được đến gần lối đi giữa, hy vọng Đức Thánh cha sẽ đi lên lễ đài lối này, như tối hôm qua, để chụp ảnh Đức Thánh Cha, thật gần. Hương đã chụp được ảnh ban nhạc, đội diễu binh, rất đẹp. Hàng loạt biểu ngữ được giương cao: nào cờ Đức, Pháp, Ý, Ba Lan… với đủ các thứ tiếng. Hương ngắm máy, chờ Đức Thánh cha đi tới để chụp ảnh, nhiều phóng viên, nhiếp ảnh cũng vậy. Ai cũng háo hức đón chờ Đức Thánh cha. Nhưng hôm nay, Đức Thánh cha đi ra từ trong đền Thánh, thế là “nhỡ tầu”… thế nhưng, ai cũng reo hò, cũng cố la lên thật to khi Đức Thánh cha xuất hiện! Thánh lễ Phục sinh hừng đông được cử hành trang nghiêm và long trọng. Thời tiết lại rất đẹp, nắng chan hòa khắp quảng trường. Trên lễ đài đầy hoa, đủ mầu sắc, làm tăng thêm vẻ đẹp của ngày lễ lớn. Cuối Thánh lễ, Đức Thánh Cha chúc bình an bằng nhiều tiếng các nước trên thế giới, khoảng sáu mươi mốt ngôn ngữ… ai cũng náo nức chờ đợi đến tên nước mình và thích thú reo hò vang cả góc trời. “Đội quân” Việt Nam cũng reo hò không kém! Tan lễ, Đức Thánh cha ngối trên chiếc xe Mecerdes dạo quanh một vòng vẫy chào mọi người trong tiếng reo hò mừng vui của mọi người dự Thánh lễ trên quảng trường. Thánh lễ đã xong, nhiều người vẫn chưa chịu về, vì nghĩ rằng, Đức Thánh cha sẽ còn xuất hiện ở cửa sổ nhỏ trên lầu như mọi năm. Nhưng hôm nay, Đức Thánh cha không xuất hiện, có lẽ vì tuổi già, sức yếu. Mặc dù vậy, mấy trăm nam nữ thanh niên vẫn kiên trì, đứng dưới cửa sổ hò reo, nhảy múa gọi: “Papa! Papa!”…

Thứ hai ngày 24-4-2000

Sáng sớm, chúng tôi cùng cha Tuyên úy dâng Thánh lễ và cha Tuyên úy làm phép các ảnh tượng chúng tôi đã mua để làm kỷ niệm và làm lễ xức dầu cho chúng tôi. Sau đó, ăn sáng và sửa soạn hành lý lên đường sau năm ngày đêm tham dự các nghi lễ tuần Thánh tại Roma. Rời Roma, tiếp tục cuộc hành trình về phía Nam nước Ý, đến Assissi, thăm quê hương Thánh Phanxico “khó khăn” nằm lưng chừng nơi ven núi, nơi đây, năm ngoái đã xảy ra một trận động đất lớn làm hư hại đền Thánh. Trời đổ mưa lớn, như thử thách lòng kiên trì chịu đựng của các con chiên của Chúa. Nhưng dù mưa, ai cũng liều đội mưa đến thăm viếng mộ Thánh Phanxico và sau đó đi mua qùa kỷ niệm. Chúng tôi ngủ một đêm ở khách sạn Terrazza. Khách sạn thật sang trọng, tiện nghi, ăn uống ngon, bù lại mấy ngày mệt nhọc, thức khuya, dậy sớm…

Thứ ba ngày (25-4-2000)
Sau khi dự Thánh lễ cùng cha Tuyên úy, chúng tôi đến Florenz, thăm thành phố nghê thuật nổi tiếng của Ý với nhà thờ chính tòa, xây bằng đá qúy. Chúng tôi xúm lại chụp ảnh bên tượng vua David nổi tiếng… Ở đây nửa ngày, sau đó, chúng tôi tiến về Padova và Venezia. Trên đường tới Padova, xe đi khá chậm, đường đầy xe, vì là ngày quốc khánh của Ý. Khi tới khách sạn thì đã muộn. Người chờ chúng tôi trước khách sạn là một sơ người Việt, con gái anh chị trong đoàn. Anh chị và sơ gặp nhau mừng tíu tít làm chúng tôi cũng vui lây. Cùng phụ giúp đem hành lý xuống khỏi xe, sơ còn ở lại khách sạn với chúng tôi hai ngày và cùng chúng tôi đi thăm quan thắng cảnh. Hai ngày nghỉ ở khách sạn
Bel Soggiorno, chúng tôi đến thăm đền Thánh Anton. Cha Tuyên úy cũng đã được chịu chức Linh mục nhằm lễ Thánh Anton nơi đây (13-6), cha đã xin phép được làm lễ ở nhà nguyện riêng cho phái đoàn chúng tôi. Ai cũng thầm cầu nguyện xin Thánh Anton cầu bầu trước Chúa cho riêng mình, cho gia đình và cho người thân như xưa Thánh đã từng giúp nhiều người. Đến tối, cha và chúng tôi lại có giờ cầu nguyện chung.

Thứ tư ngày (26-4-2000)
Sau khi ăn sáng, xe bus đưa chúng tôi đến thăm Venezia, thành phố nổi có một không hai trên thế giới. Nơi đây, chúng tôi thuê riêng một chiếc tầu đẹp để di chuyển vào thành phố. Chúng tôi cùng cha Tuyên úy đến thăm đền Thánh Marco với công trình kiến trúc thật tuyệt vời. Bên trong vòm nhà thờ họa sĩ vẽ cảnh “Địa ngục và Thiên đường” đẹp qúa sức tưởng tượng. Sau đó, chúng tôi có vài tiếng tự do ngắm cảnh, mua sắm, tắm nắng biển, đùa dỡn với chim bồ câu. Đúng bốn giờ chiều, đoàn chúng tôi tập hợp lại, đi đều bước để lên thuyền, lên xe về khách sạn. Ngay cạnh khách sạn có hồ nước suối nóng, nên một số người cùng với cha Tuyên úy đi bơi ở hồ. Sau đó, ăn tối và xếp hành lý lên xe trước để sáng sớm hôm sau hành trình về Borsum. Hôm nay, sau bữa ăn tối, đoàn chúng tôi ngồi lại trao đổi, tâm tình. Ai cũng nhận ra hồng ân Chúa ban. Đặc biệt, các bác nhiều tuổi, có bác gần tám mươi tuổi, nhiều bác ngoài sáu mươi, hay trên bảy mươi tuổi, nhưng ai cũng khỏe mạnh, phấn khởi. Có bác mới bị mổ được ba tháng, khi tham dự hành hương cha Tuyên úy thấy ái ngại, nhưng rồi cũng không sao! Sau cuộc hành hương lại thấy như khỏe hơn. phấn khởi hơn và tìm thấy niềm tin mạnh hơn. Mọi người tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Đức mẹ Maria, các Thánh… đã phù trợ cho chuyến Hành hương, cảm ơn cha Tuyên úy đã chu đáo tổ chức cho chuyến đi, cũng cám ơn các anh chị em thanh niên trẻ đã tận tình giúp đỡ các bác nhiều tuổi, cũng như sức yếu trong lúc chuyển vác hành lý và khi đi đường. Phái đoàn có chút qùa nhỏ kính tặng cha Tuyên úy để lưu niệm chuyến đi, ngược lại, cha Tuyên úy cũng có qùa tặng một số người đã đóng góp công sức cho chuyến hành hương Giáo đô Roma thành công, thuận lợi….

Thứ năm ngày (27-4-2000)

Từ năm giờ sáng, mọi người đã đầy đủ trên xe bus để về Borsum. Dọc đường, ai cũng vui vẻ, phấn khởi, cùng đọc kinh cầu nguyện, đọc kinh Mân côi, tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức mẹ Maria, các Thánh… Sau kinh nguyện thì mọi người thay phiên nhau ca hát hay kể chuyện vui để rút ngắn đường dài. Hương cũng đóng góp hát, ngâm thơ như một “diễn viên thực thụ”. Giữa đường đổi tài xế để xe chạy liên tục, không nghỉ. Khoảng tám giờ tối, xe về tới Borsum. Chuyến hành hương mười ngày thật bình an, đầy hồng ân Chúa! Tạ ơn Chúa, Tạ ơn Đức mẹ Maria, các Thánh…
Tới Borsum, cha Tuyên úy đã chu đáo nhờ người lo nấu bún riêu để chiêu đãi mọi người. Sau mười ngày hành hương, đi đường, thức khuya, dậy sớm, ăn uống toàn đồ Tây, bát bún riêu qủa là viên thuốc kỳ diệu giúp mọi người hồi phục lại sức khỏe. Mọi người chia tay nhau, trong sự quyến luyến và hẹn trong những chuyến hành hương khác. Hương xin kết thúc lược trình hành hương với bài ca dâng lên Thiên Chúa:

Mọi ngả đường, mọi dân tộc đều tiến về Roma
(Tha thiết, tình cảm)

Chúng con từ mọi nẻo đường, mọi ngả
Cùng nhau hành hương tiến về Giáo đô
Mọi cửa đền Thánh rộng mở, đón chờ
Như vòng tay Thiên Chúa chờ chiên lạc…

Trước cửa đền Thánh đàn con chiên ngơ ngác
“ Ôi! Kỳ diệu thay! Ôi! Thiêng liêng thay!“
Những công trình tuyệt tác đến thế này
Nhờ Thiên Chúa – con người nên kỳ vĩ!

Ôi! Hạnh phúc cuộc hành hương thế kỷ
Ôi! Mừng vui hồng ân Thiên Chúa ban
Ai cũng reo cười, phấn khởi, hân hoan
Càng vững lòng niềm tin nơi Thiên Chúa!

Nhân chuyến hành hương Giáo đô năm Thánh 2000
Mùa lễ Phục sinh Roma 18-28-4/2000)

Tạ ơn Chúa! Tạ ơn Đức Mẹ, các Thánh cùng ba mẹ, ông bà cô bác… đã che chở, cầu bầu cho chuyến hành hương của chúng con đi, về bình an, vô sự, tràn đầy hồng ân Chúa!

(Trích truyện ký: Đời tôi (Nhật ký xen lẫn hồi ký – Trần Kim Lan) 

 

Nhãn: ,

Nghĩ về bài hát: “ Đôi mắt đò ngang“ của Nguyễn Trọng Tạo

Nghĩ về bài hát: “ Đôi mắt đò ngang“ của Nguyễn Trọng Tạo

Xem tại đây:
– Bài hát: Đôi mắt đò ngang
_MSC_CLICK_TO_OPEN_IMAGETôi đã nghe nhiều bài hát do Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo sáng tác, bài hát nào do Nhạc sĩ sáng tác cũng lắng đọng trong tôi những dư âm ngọt ngào, da diết khó quên, làm vơi đi trong tôi những mệt nhọc, buồn rầu đời thường.
Bài hát nào của Nhạc sĩ tôi cũng thích, đặc biệt là bài “Làng Quan họ quê tôi“, “Khúc hát sông quê“ và “ Đôi mắt đò ngang“. Nhưng tôi chọn bài “Đôi mắt đò ngang“ để bày tỏ tình cảm của mình, vì sao? Đơn giản vì bài hát này dễ hát, dễ thuộc, và tôi đang cố học hát bài này để thấm hơn nhịp điệu và tình ý mà Nhạc sĩ muốn gửi gắm qua bài ca này và cũng là bài mà lời và nhạc là do chính Nhạc sĩ “tự tung, tự tác“, theo cảm hứng của chính Nhạc sĩ.
Mở đầu, Nhạc sĩ dẫn ta đến một khung cảnh miền quê sông nước:

“Bồng bềnh, bồng bềnh“

Ta như đang nhìn thấy con đò ngang đang bập bềnh trên sông nước, đợi khách qua sông. Ta cũng hình dung dòng sông trong xanh buổi sáng sớm, người lái đò đang ngóng đợi khách. Nhịp hát nhẹ nhàng, giọng kề chuyện, dẫn đưa ta đến sự kiện… và cũng với nhịp điệu khoan thai, giọng kể chuyện, được lặp lại như trên:

“Gọi đò, gọi đò
Đò sang, đò sang“

Nhạc sĩ đã dẫn dắt người nghe một cách từ từ, chậm rãi, để rồi, người nghe bất chợt hồi hộp vì tình tiết xảy ra, vì âm điệu nhạc thay đổi nhanh hơn, mạnh mẽ hơn:

“Đò sang sông nước
Gặp đôi mắt biếc“

Ở đoạn này Nhạc sĩ bắt đầu dẫn đưa ta đến tình tiết hấp dẫn của sự việc “ Gặp đôi mắt biếc“ ở đây được luyến giọng, âm thanh vút cao khiến tim ta cũng bắt đầu rung cảm. Và câu tiếp theo:

“Mà say mà say tình
Mà yêu mà yêu người”

Đã được Nhạc sĩ phổ nhạc với âm điệu chậm, luyến láy từ “mà, say, yêu” và đó chính là điểm đỉnh của tình cảm. Chữ “say… tình” và “yêu… người” ở đây được luyến và kéo dài ra, thể hiện cung bậc tình cảm của người kể chuyện, mà ta hiểu đó là một chàng trai, tới bến đò và bắt gặp ánh mắt của một người con gái. Đó lá ánh mắt “biếc”, là ánh mắt ngây thơ, trong sáng của một cô gái đến tuổi dậy thì, đến tuổi yêu. Ánh mắt đã hút hồn chàng trai, đến mức độ mà chàng trai đã “say” cô gái đó, ngay từ ánh nhìn đầu tiên, từ say, đến yêu, yêu ngay từ ánh nhìn đầu tiên. Đôi mắt chính là cửa sổ của tâm hồn, là cầu nối tình yêu đôi lứa và tình cảm của nhân loài. Tất nhiên, phải có sự giao nhau của hai cặp mắt, thì mới khiến chàng trai mê mẩn đến thế. Nếu cô gái không nhìn chàng trai với ánh mắt chứa chan tình cảm, thì chắc chắn chàng trai cũng không bị “tiếng sét ái tình” đánh trúng tim!
Thế rồi, chàng trai chưa kịp định thần, sau cú “sét đánh”, ánh mắt đó đã mất hút theo dòng người, chàng trai ngơ ngẩn, lang thang đi tìm đôi mắt đó:

“Vào sông Lam
Hỏi thăm đôi mắt ấy
Hỏi người, người về đâu
Về đâu hỡi người”

Âm điệu nhạc lúc này da diết, là tâm trạng lo lắng, hồi hộp của chàng trai, không biết làm sao đây để gặp lại cô gái, gặp lại đôi mắt biếc ấy? Nhạc sĩ đã thể hiện rất thành công tình cảm yêu thương nồng cháy của chàng trai. Và chàng trai tiếp tục trăn trở, lo lắng, làm sao đây để tìm được cô gái:

“Về đâu trên bến dưới thuyền
Sa Nam chưa vãn chợ
Biết tìm là tìm người đâu?”

Với nhịp điệu dồn dập, tha thiết Nhạc sĩ đã cho ta hiểu tâm trạng rối bời của chàng trai, vì sợ sẽ không gặp lại được đôi mắt ấy trong dòng người ngược xuôi trên sông nước. Và rồi, cũng thật là bất ngờ, chàng trai đã nhìn thấy đôi mắt ấy trên con đò ngang đầy ắp người:

“Chợ Đông, chợ Đông ai chở đò đầy”

Và một lần nữa, Nhạc sĩ lại tạo ra một tình huống thật bất ngờ, lý thú:

“Chìm trong đôi mắt ấy

Nhịp điệu ở đây dồn dập, gây hứng thú vô cùng và ngôn ngữ thể hiện tình cảm rất tuyệt! Nghe tới đây, tôi liên tưởng đến hình ảnh Thúy Kiều:

Đò đầy, đò đầy, anh cứ sang!”

“Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” (Truyện Kiều – Nguyễn Du).

Thúy Kiều vì yêu Kim Trọng, cũng đã vượt qua lễ giáo phong kiến mà tự tìm đến với người mình yêu. Huống chi nay là thế kỷ hai mươi, chàng trai đã để lỡ cơ hội làm quen ngay từ ánh nhìn đầu tiên, phải nhọc công đi tìm kiếm ánh mắt ấy, nay gặp lại, dù đò có đầy, cũng cứ trèo lên. Ta hình dung đò đầy chật những người và chàng trai cố trèo lên đò và tới ngay bên cô gái để làm quen, hai cặp mắt nhìn nhau đắm đuối và phản ứng của người lái đò và những người đi đò ra sao? Chắc là đò nặng qúa tải, họ định yêu cầu chàng trai xuống, nhưng khi bắt gặp ánh mắt của hai người, chắc chắn một ai đó, sẽ tự động rời khỏi đò để nhường chỗ cho chàng trai kia, nếu tôi ở hoàn cảnh đó, tôi cũng sẽ nhường chỗ cho chàng trai, đi chuyến sau! Nhạc sĩ đã dẫn dắt chúng ta tới một tình huống bất khả kháng của chàng trai: Nhất định phải làm quen với cô gái! Và thế là tình yêu bắt đầu!

“Bồng bềnh, bồng bềnh
Đò ngang, đò ngang
Bạn tình, bạn tình
Cùng sang, cùng sang“

Nhạc sĩ tiếp tục kể chuyện với giọng điệu như mở đầu câu chuyện, nhưng lúc này, trên con đò ấy, hai cặp mắt đã làm quen với nhau và họ hiểu, tình yêu đã bắt đầu, như Nhạc sĩ đã diễn tả. Tình yêu đến và hai nhịp tim cùng đập, cùng say, tình yêu trào dâng như sóng nước, như mùa xuân đất nước:

“Cùng sang Bến Ước
Mùa xuân đất nước
Niềm vui, niềm say rót đầy
Niềm yêu, niềm tin tháng ngày
Bên sông Lam trời xanh như đắm đuối
Mắt người… người tình ơi!”

Không chỉ chàng trai đắm đuối, chìm trong đôi mắt thiếu nữ mà cả “trời xanh” cũng đắm đuối trước hai cặp mắt đang yêu nhau!

Một bài hát, một câu chuyện tình bắt nguồn từ đôi mắt biếc, từ đôi cặp mắt giao nhau trên dòng sông Lam, nơi Nhạc sĩ đã sinh trưởng, đã chìm đắm khỏa mình trong dòng nước trong xanh quê hương, đã chìm đắm trong ánh mắt chứa chan yêu thương, trinh trắng thuở ấy, đã là hành trang cho những bài ca bất hủ mà Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo đã dâng cho đời. “Đôi mắt đò ngang” cũng chính là ánh mắt mà ta gặp bất cứ ở đâu, ở bất cứ dòng sông nào trên quê hương, trên những nẻo đường… của bất cứ ai, của bất cứ cuộc tình nào… Và bài ca với âm điệu tha thiết yêu thương, với tình yêu tuyệt đẹp, bất diệt, sẽ tồn tại mãi với thời gian! Cảm ơn “Đôi mắt đò ngang” – cảm ơn Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo!

26.5.2012/Trần Kim Lan  

 

Nhãn: ,

Luật pháp và công dân

Luật pháp và công dân

 

Quán nước hôm nay thật đông người. Chủ quán là một phụ nữ trạc ngoài năm mươi tuổi. Bà rất có duyên nói chuyện, đặc biệt là những tin nóng hổi thời sự trong ngày, vì thế, quán của bà lúc nào cũng đông khách, đủ các hạng người, đặc biệt là nam giới.

 

– Này, các bác có nghe động tĩnh gì về vụ Tiên Lãng không thế? Không biết sau khi nghe kết luận của chính quyền Hải Phòng, phản ứng của dư luận thế nào?

– Đã có kết luận rồi! Khối ông tai to mặt lớn bị cách chức, hoặc bị điều sang việc khác! Một bác làm nghề xe ôm nói.

– Vậy hả bác? Thế mới gọi là luật pháp chứ! Tội thì phải bị trừng phạt, dù người đó là ai! Bác hàng xóm trả lời.

– Thế còn gia đình anh em nhà anh Vươn? Họ xử lý ra sao? Chủ quán hỏi

– Nghe nói, họ sẽ được thuê lại đất và đền bù gì đó. Bác xe ôm nói.

– Thế mới đúng chứ! Chính quyền Tiên Lãng sai, thì phải sửa sai! Dân oan khiếu kiện ầm ầm lên khắp nẻo cũng chỉ vì người thi hành luật pháp còn nhiều thiếu sót đấy! Nhất là luật về đất đai, đền bù, giải tỏa! Chủ quán nói.

– Thế nhưng, tôi thấy chưa thỏa đáng chút nào! Mấy ông quan chức xử phạt như thế nhẹ qúa. Cách chức chỗ này, lại điều chỗ khác và còn bất công lắm, đối với gia đình anh Vươn! Đang yên đang lành, bỗng dưng trắng tay, cửa nhà bị đập phá tan hoang. Đang là “người hùng” trong lao động trở thành kẻ tội phạm, vì dám chống đối nhà chức trách! Bà chủ quán cao giọng.

– Kể cũng tội thật! Nhưng, xét cho cùng, gia đình nhà anh Vươn cũng hành động thiếu suy nghĩ chín chắn, vì thế nên mới phải ngồi tù. Luật pháp là luật pháp, là công dân phải có nghĩa vụ thi hành. Nếu người lãnh đạo sai, thì người dân có quyền khiếu kiện, có quyền tranh đấu để giành sự công bằng. Thiếu gì cách để thực thi quyền công dân! Giá như gia đình nhà anh Vươn thuê luật sư, khiến kiện lên cấp trên, lên trung ương, thì chính quyền Tiên lãng đâu dám làm sai? Một bác ra dáng trí thức chen vào.

– Bác nói cũng phải! Là công dân phải nắm vững luật và chấp hành đúng luật! Bà chủ quán nói.

– Tôi nghe nói, ở nước ngoài, các nước tư bản ấy, người dân rất được tự do, nhưng là tự do trong khuôn khổ luật pháp, bất cứ chuyện gì, dù chỉ là tranh chấp hai bên công dân với nhau, họ cũng nhờ đến luật sư can thiệp và chờ đợi chính quyền, tòa án giải quyết. Vậy có đúng thế không bác? Bà chủ quán quay qua hỏi, một người im lặng từ bấy đến giờ.

– Đúng vậy bác ạ. Hành động như gia đình anh Vươn là tự chuốc họa vào thân. Bà con mình còn chưa nắm vững luật pháp và quyền công dân. Là công dân phải có nghĩa vụ chấp hành luật pháp. Có quyền khiếu kiện, tranh đấu, nhưng không nên hành động bộc phát, bạo động. Con giun xéo mãi cũng quằn, tôi đồng ý, nhưng không thể hành động nông nổi. Tranh đấu kiểu thế là không nên! Người khách trả lời bà chủ quán.

– Đành là vậy, nhưng tôi vẫn thấy thương cho gia đình nhà anh Vươn qúa! Luật pháp của ta còn lỏng lẻo qúa, nên nhiều chính quyền địa phương “qua mặt” trung ương, lộng hành, thái qúa khiến bao nhiêu chuyện oan ức đã và đang xảy ra ở khắp nơi, nhất là về chuyện tranh chấp đất đai, đền bù, giải tỏa… Bà chủ quán nói.

 

– Hy vọng chính quyền trung ương và các cấp sớm có quy định rõ ràng về luật pháp, nhất là vấn để nóng hổi về luật đất đai… để tránh những sai lầm đáng tiếc xảy ra, mà người thiệt hại nhiều nhất, chính là những người dân lương thiện, nghèo khổ. Bà chủ quán trầm ngâm kết thúc cuộc đàm luận.

 

13.4.2012/Trần Kim Lan

 

Nhãn: , ,