RSS

Tag Archives: Sưu tầm

Năm Tý, nói chuyện chuột

Open in new window

Sau khi năm Đinh Hợi chấm dứt, thì đến năm Mậu Tý được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm thứ tư, 06.02.2008 để cầm tinh đến 24 giờ đêm 25.01.2009.
Năm Mậu Tý này thuộc hành Hỏa và mạng Tích Lịch Hỏa tức Lửa Sấm Sét, năm này thuộc Dương, có can Mậu thuộc mạng Thổ và có chi Tý thuộc mạng Thủy. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì năm này “Can khắc Chi” tức Trời khắc Đất.

Bởi vì: “Mạng Thổ = Mậu khắc mạng Thủy = Tý” (mạng Thổ tức Trời được khắc xuất, mạng Thủy tức Đất bị khắc nhập theo cách thức đó để sanh ra một lớp Chuột mới, nhưng lớp Chuột mới nầy vẫn chưa dùng được… Do vậy, năm này xem như tổng quát rất xấu, bởi vì bị Trời khắc Đất giống như các năm: Giáp Tuất (1994), Nhâm Ngọ (2002) đã qua, xem như tuổi xấu nhứt của hàng tuổi Tý, chớ không phải người đời cho rằng tuổi có Can là Mậu là không tốt hết đâu. Bằng chứng các tuổi như: Mậu Thân (1908 – 1968), Mậu Ngọ (1918 – 1978) và Mậu Tuất (1958 – 2018), Mậu Thìn (1928 – 1988), đều tốt hơn Mậu Tý, vì các tuổi này được tương sanh hay tương hòa.
Được biết năm Tý vừa qua là năm Bính Tý thuộc hành Thủy, nhằm ngày thứ hai, 19.02.1996 đến 06.02.1997.
Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2008 = 4645, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 77 và số dư 25 năm bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm
2043. Do vậy, năm Mậu Tý 2008 này là năm thứ 25 của Vận Niên Lục Giáp 78.
Năm Tý tức Chuột cũng là Thử, cho nên trong bàn dân thiên hạ cũng thường nhắc nhở luôn trong sinh hoạt xã hội hằng ngày, từ đó mới có những từ ngữ liên quan, xin trích dẫn như sau:
Tý là con Chuột đứng hạng thứ 1 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi, vì nhỏ con và lanh lợi nên được đầu.
– Giờ Tý = là giờ từ 23 giờ khuya đến đúng 01 giờ sáng hôm sau.
– Tháng Tý = là tháng Mười Một của năm âm lịch.
Đối với người Pháp, khi nói đến tuổi Tý thì họ tưởng là con Chuột Cống nên dùng chữ Le Rat thay vì dùng chữ Le Souris.
Ngoài ra, còn có những Ca Dao, Tục Ngữ và Thành Ngữ, xin trích dẫn như sau:
Chuột kêu chút chít trong rương,
Anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay.
Chuột chù chê Khỉ rằng hôi,
Khỉ lại trả lời: cả họ mầy thơm?
Cần chi cá Lóc, cá Trê,
Thịt Chuột, thịt Rắn nhậu mê hơn nhiều.
Chuột chê xó bếp chẳng ăn, Chó chê nhà dột ra nằm bụi tre.
(ca dao)
Chuột chạy cùng sào.
Chuột đội vỏ trứng.
Chuột sa hũ nếp.
Chuột sa chĩnh gạo.
Chuột sa lọ mỡ.
Ném Chuột bể (vỡ) đồ.
Ném Chuột còn chê củi bát.
Nhi nhắt như Chuột ngày.
Mắt Dơi tai, (mày) Chuột.
Chuột gậm chân Mèo.
Mặt như Chuột kẹp.
Nhăn nhó như Chuột.
Lù rù như Chuột Chù phải khói.
Cháy nhà ra mặt Chuột.
Đầu Voi đuôi Chuột.
Ướt như Chuột lột v.v …
(tục và thành ngữ)
Để tìm hiểu loài Chuột như thế nào? Chúng ta có thể quả quyết rằng: Loài Chuột có lông nhiều dày rậm, lỗ tai nhỏ, mỏ và đuôi dài. Chuột lại là loài gặm nhấm, nhưng còn sanh sản rất nhanh và nhiều, cho nên chúng nó cắn phá khủng khiếp, không chừa nơi nào, ở trong nhà thì đào hang, khoét vách, cắn phá gạo nếp, thức ăn thức uống khi quên đậy, kể cả giấy má v.v… rồi làm ổ đẻ liên tục và ở ngoài đồng thì cắn phá hột giống, mùa màng cũng như các nông phẩm của nông dân như: lúa, bắp, khoai v.v… Vì thế họ hàng nhà Chuột đi đến đâu, thì mọi người điều sợ sự phá hoại của Chuột, nếu ghe tàu nào bị Chuột đến ở, thì cũng khốn khổ không ít.
Ngoài ra, loài Chuột cũng tạo nên bịnh dịch hạch làm cho sự chết chốc lên đến hàng trăm ngàn người tại nhiều nước trên thế giới, ví như tại Athène (Hy Lạp) vào năm 429 trước Công Nguyên, hoặc các nước khác như Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý Đại Lợi, Pháp v.v… cũng bị sát hại vì bịnh dịch này, người ta đã thống kê chỉ 7 năm, kể từ năm 1346 đến năm 1353 số người bị chết trên thế giới như sau: Âu Châu gần 25 triệu người và Á Châu cũng gần 23 triệu người và được người đời xem như là một thiên tai.
Vì Chuột thường đem tai họa đến cho loài người như vậy, nên người thường kiếm đủ cách để loại trừ Chuột ví như: Thuốc Chuột, đặt bẫy Chuột, giậm cù bắt Chuột v.v…
Đặc biệt, khi bắt được Chuột còn sống, người ta may lỗ đít nó lại, rồi thả nó trong nhà, nó bị bí ỉa cho nên nó lập tức cắn đuổi đồng bọn nó chạy khỏi nhà và cắn chết luôn mấy con Chuột con, sau đó nó cũng chết theo luôn.
Tuy vậy Chuột là con vật ranh mảnh khôn ngoan, khó lòng bị tiêu diệt hết. Người ta thường kể, Chuột muốn tha một cái trứng gà to về ổ mà không bị bể, Chuột đã biết để một con nằm ngửa ôm trứng, miệng ngâm đuôi con khác để con này kéo về ổ…
Do vậy, Trời sanh Chuột thì phải sanh Mèo hay Rắn để trừ diệt Chuột, nếu không loài người khó sống nổi với Chuột, bởi tai họa về Chuột tạo nên. Tuy nhiên, loài Chuột cũng có giúp ích cho nhân loại. Bởi vì, bắt loài Chuột để làm cuộc thí nghiệm y khoa, hầu tìm được các loại thuốc trị bịnh cứu sống chúng ta và riêng thịt Chuột là một đặc sản thực phẩm đáng kể nữa, nếu ai đã từng về: Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ, Ô Môn, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng… thuộc miền Hậu Giang, vào mùa bắt Chuột, thì thấy Chuột được bày bán trắng phiếu, vì đã thui và lột da xong, người mua đem về chế biến 7 món ăn về Chuột như chơi, nào là: Chuột nướng, Chuột chiên hay muối với sả ớt, Chuột xào hành, Chuột bầm xào Lá Cách hay Lá Lốt hoặc Chuột bầm rồi ướp gia vị để làm nhưn bánh Xèo v.v…
Nhân nói về món ăn bằng thịt Chuột, xin trích dẫn một trong những món ăn liên quan đến con Chuột, trong dịp Bà Từ Hi Thái Hậu, đời nhà Thanh bên Trung Hoa, khoản đãi phái đoàn sứ thần thuộc các quốc gia Tây Phương, nhân dịp mừng Xuân Canh Tý 1874. Tiệc được chuẩn bị 11 tháng 6 ngày trước, có 1750 người phục vụ, tốn kém 98 triệu Hoa tệ thời bấy giờ tương đương 374 ngàn lượng vàng ròng, gồm 400 thực khách và kéo dài suốt 7 ngày đêm bắt đầu giờ giao thừa Tết Nguyên Đán năm Canh Tý.
Đó là món Sâm Thử tức là con Chuột được nuôi bằng sâm.
Trong quyển Món Ăn Lạ Miền Nam, tác giả Vũ Bằng tường thuật món Sâm Thử như sau: Chuột mới đẻ đem nuôi trong lồng kính cho ăn toàn sâm thượng hảo hạng và uống nước suối, đến khi đẻ ra con thì lấy những con đó nuôi riêng cũng th ời thứ ba, Chuột mới thực là “thập toàn đại bổ”, người ta mới lấy những con Chuột bao tử của thế hệ mới này ra ăn và ăn như thế thực là ăn tất cả cái tinh hoa, bén nhậy, khôn ngoan của giống Chuột cộng với tất cả tính chất cải lão hoàn đồng, cải tử hoàn sanh, tráng dương bổ thận của cây sâm vốn được y lý Đông Phương đặt lên hàng đầu thần dược từ cổ chí kim trong trời đất…
Nguyên đại sứ Tây Ban Nha thuật lại rằng, đến món ăn đặc biệt ấy thì có một ông quan đứng lên giới thiệu trước rồi quân hầu bưng lên bàn tiệc cho mỗi quan khách một cái dĩa con bằng ngọc trong đó có một con Chuột bao tử chưa mở mắt, đỏ hỏn hãy còn cựa quậy, nghĩa là một con Chuột bao tử sống. Bao nhiêu quan khách thấy thế chết lặng đi, bởi vì nếu phải theo giao tế mà ăn cái món này thì… nhất định phải… trả lại hết những món gì đã ăn trước đó. Mọi người nhìn nhau? Bà Từ Hi Thái Hậu cầm nĩa xúc con Chuột bao tử ăn để cho mọi người bắt chước ăn theo. Con Chuột kêu chi chí, người tinh mắt thấy một tia máu vọt ra… Hoàng Đế Trung Hoa thông thả vừa nhai vừa suy nghĩ như thể muốn kéo dài cái thú ăn tuyệt diệu ra để cho cái thú ấy thấm nhuần trí óc và cơ thể. Và Ngài nói: “Mời Chư Vị”. Nhưng không một vị nào đụng đũa, cứ ngồi đơ ra mà nhìn. Bà Từ Hi Thái Hậu bèn cười mà nói đùa: “Tôi tiếc không thấm nhuần được cái văn minh Âu Mỹ của các Ngài, nhưng riêng về cái ăn thì tôi thấy quả các Ngài chậm tiến, không biết cái gì là ngon là bổ. Về món đó, các Ngài có lẽ còn phải học nhiều của người Á Đông”. Không một ông nào trả lời, vì có lẽ các ông đại diện ấy đến lúc ấy đều bán tín bán nghi không biết ăn Chuột bao tử như thế là văn minh hay dã man. Tuy nhiên, người ta có thể chắc chắn là chưa có một nước nào trên thế giới lại có một món ăn tinh vi, quí báu, cầu kỳ đến thế bao giờ… Chính ông đại sứ Tây Ban Nha phải nhắm mắt lại thử ăn, nhưng ông thú thực rằng vừa cho vào miệng cắn một cái thấy Chuột con kêu chi chí, ông ta vội vàng chạy ra ngoài nhả ra và một tháng sau còn sợ. Sau này, đem câu chuyện đó nói với mấy vị Đông y sĩ, ông ta biết rằng người Âu Mỹ không biết ăn cái món ấy, quả là “châm biếm” và mấy ông già còn cho biết thêm rằng Chuột thường nuôi bằng sâm bổ hết sức rồi, nhưng nếu tìm được giống Chuột Chù mà nuôi bằng sâm theo cách thức nói trên thì còn bổ gấp trăm lần nữa… (tài liệu này do Mọt Sách sưu tầm và tường thuật).
Trong loài Chuột, không những có các tên vừa kể ở trên kia, mà còn có các tên khác, xin trích dẫn như sau:
– Chuột Lắt: Đây là loài Chuột nhỏ con bằng ngón tay cái hoặc lớn hơn một chút, nó thường sống ở trong nhà, rất lanh lợi, sanh sản rất nhiều và thường cắn phá khủng khiếp. Trong dân gian, thấy đứa con nào hoặc người nào có thân hình nhỏ con thường phá phách gia đình hay xóm làng, thì cũng được gọi là Chuột Lắt.
– Chuột Xạ cũng thường gọi Chuột Chù, cũng có thân hình nhỏ con, mỏ dài và nhọn, đuôi rất ngắn. Đặc biệt, nó có mùi hôi xạ khó ngửi cho nên có cái tên là Chuột Xạ và Mèo cũng sợ mùi xạ hương này, nên cũng lánh xa. Chuột Xạ không cắn phá và lanh lợi hơn Chuột Lắt, nó thường ở hộc tủ, gầm giường hay trong hang và đi sát đất, rất chậm lụt, thường kêu chít chít như Chuột rúc vậy. Trong dân gian thường quan niệm điềm may mắn hay phát tài là:
Thứ nhứt đom đóm vào nhà,
Thứ nhì Chuột rúc,
Thứ ba hoa đèn.
– Chuột Dừa: là loại chuột thường sanh sống ở trên cây dừa, ít xuống đất, nó chỉ cắn phá cây dừa và ăn cơm dừa, uống nước dừa mà sống, thân hình nó lớn bằng cườm tay. Vì thế, nó mới có tên là Chuột Dừa, loại chuột này thường thấy những tỉnh trồng nhiều dừa như ở Bến Tre, thịt nó thơm ngon đặc biệt, bởi vì nó ăn uống bằng trái dừa rất tinh khiết.
Ngoài ra, những loại chuột hoang đã đơn cử ở trên, chúng ta còn thấy loại chuột người nuôi để làm cảnh. Đó là:
– Chuột Bạch: là loại chuột nhỏ con, có lông màu trắng và thường thấy ở bên Tàu, cho nên nó có tên là Chuột Tàu. Người nuôi Chuột Bạch hay Chuột Tàu này phải tốn tiền mua chuột, mua lồng chuột đặc biệt, để nó biểu diển và tốn thức ăn chớ không phải như các loại chuột hoang khỏi săn sóc gì cả. Nhưng bù lại, người nuôi chuột này được xem những trò biểu diễn của nó và làm cảnh cho vui cửa vui nhà.
Kể các họ hàng loài chuột không thể hết được, và loài chuột cũng có nhiều đặc tính của chúng nó, cho nên người đời thường nhân cách hóa và đưa vào văn học nhân gian, nhân đây xin trích dẫn như sau:
Chuyện kể rằng, có một hôm Chuột Bạch, góa chồng nhưng nhứt định không tái giá, ở vậy nuôi con thờ chồng. Ngày nọ Chuột Bạch bị chó rượt, chạy lạc vào một hang chuột khác. Nhân lúc chuột cái đi vắng, chuột đực ve vãn, ép duyên nhưng Chuột Bạch một mực chối từ. Sau cùng, chuột đực buộc lòng phải để Chuột Bạch rời hang. Kịp đến, khi chuột cái vừa về đến nhà, bắt gặp chồng tiễn đưa Chuột Bạch ngay cửa hang, bèn nổi cơn ghen, mắng mỏ chồng, rồi sang nhà Chuột Bạch đánh ghen. Khi Chuột Bạch trần tình sự việc với chuột cái, thì Mèo chạy đến. Chuột cái hoảng sợ, chạy té xuống giếng. May thay có một nho sinh tên Hồ Sinh vớt lên và giảng đạo lý với Chuột Cái, Hồ Sinh khuyên làm đàn bà phải giữ lòng trinh như Chuột Bạch.
Gặp cơn nhầm chốn xa vời,
Chẳng tham chiêu đãi, nghe lời bướm ong.
Nào ai cợt giễu thử lòng,
Gần vàng chẳng chuyển, chẳng long chút nào.
Làm vợ không nên ghen tương mà tan nát cửa nhà:

Người xưa câu ví còn gương,
Đàn bà cả tiếng tan hoang cửa nhà.
Làm chồng không nên háo sắc như chuột đực:
Như lòng chuột đực khá chê,
Toan đường quyến rũ đã mê đạo lành.
Đó là, truyện Trinh Thử thuộc ngụ ngôn nói về chuột nhằm khuyên bảo nhân gian ăn ở phải đạo.
Nhân đây, xin liệt kê một số truyện liên quan đến Chuột như sau:
Chuột Chù bị nạn.
Đám cưới Chuột.
Nghĩa Thử.
Chuột Cống.
Sự tích Chuột và Mèo.
Chuột và Rùa.
Chuột Đồng và Chuột Thành.
Chuột Lắt và Sử Tử.
… v.v…

Trở lại, năm Mậu Tý, thuộc Dương, có hành Hỏa, cho nên chúng ta có thể nói nhanh gọn là năm “Mậu Tý là Dương Hỏa”. Năm này có can là Mậu thuộc Dương, có hành Thổ, cho nên có thể nói rút gọn lại là: “can Mậu là Dương Thổ”.
Còn Chi là Tý thuộc Dương, có hành Thủy, cho nên cũng nói vắn tắt là: “chi Tý là Dương Thủy”. Hơn nữa, chi Tý là con Chuột đứng đầu của Thập Nhị Địa Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi và nó cũng đứng đầu lục chi dương là: Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân và Tuất.
Tuy vậy, nó cũng như các chi khác, bắt đầu từ chi Tý tính tới chi Hợi. Bởi vì, trong Thập Nhị Địa Chi không có chi nào quan trọng hơn chi nào.
Do vậy, có người nói: “Những người tuổi Tý thuộc nam mạng, có can Giáp hoặc Nhâm, thì sẽ làm lớn sau này”. Với lý luận như sau: Bởi vì, Người có tuổi Giáp Tý rất tốt, vì tuổi này có Can và Chi đứng đầu trong Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi, cho nên xem như tuổi này sẽ có tương lai tốt đẹp tột đỉnh sau này. Người có tuổi Nhâm Tý cũng tốt, vì tuổi này có Can là Nhâm, quả đúng với câu: Nam Nhâm, Nữ Quý và có Chi là Tý đứng đầu Thập Nhị Địa Chi, cho nên xem như tuổi này sẽ có tương lai tốt đẹp tuyệt hảo hơn người.
Tôi thấy sự suy đoán đó không có khách quan và chính xác một cách khoa học. Nhân đây, chúng ta thử phân tách, xem coi tuổi Giáp Tý và Nhâm Tý ảnh hưởng như thế nào? Ví như:
Tuổi Giáp Tý (1984): thuộc mạng Hải Trung Kim (Vàng dưới biển), thuộc Dương, có hành Kim, có Can là Giáp thuộc Mộc và có Chi là Tý thuộc Thủy. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì năm này “Chi sanh Can” tức Đất sanh Trời. Bởi vì “Mạng Thủy = Tý sanh mạng Mộc = Giáp” (mạng Thủy tức Đất bị sanh xuất, mạng Mộc tức Trời được sanh nhập). Do vậy, người có tuổi này thường được may mắn và nhờ cơ hội đưa đến hơn là thực tài, vì thế nói người có tuổi này không được tốt hoàn toàn, để tự mình lo cho sự nghiệp tương lai.
Tuổi Nhâm Tý (1912 – 1972): thuộc mạng Tang Đố Mộc (Gỗ cây dâu tằm ăn), thuộc Dương, có hành Mộc, có Can là Nhâm thuộc Thủy và có Chi là Tý thuộc Thủy. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì tuổi này “Can Chi tương hoà” tức Trời và Đất thuận hoà đắc ý nhau.
Do vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, người có tuổi Giáp Tý hay Nhâm Tý không thể là người có tuổi đó sẽ làm lớn trong tương lai.
Bởi vì, hai tuổi này không bằng tuổi Canh Tý, vì nó có can là Kim và chi là Thủy tức là”Can = Kim sanh Chi = Thủy”mới thật tốt, xin trích dẫn như sau:
Tuổi Canh Tý: là những người sanh vào các năm 1900 – 1960… tuổi này thuộc Bích Thượng Thổ hay nói gọn là mạng Thổ, nó có Can là Canh thuộc Kim và Chi là Tý thuộc Thủy, nếu căn cứ theo luật thuận khắc của ngũ hành, thì Kim sinh Thủy tức Can sinh Chi hay nói khác đi Trời sinh Đất, cho nên người có tuổi Canh Tý này rất tốt trong hàng tuổi Tý, bởi vì Trời ban cho khả năng và đức tính để tiến đến thành công dễ dàng trong mọi mặt của cuộc đời.
Hơn nữa, khi thẩm định một lá số thì phải biết: giờ, ngày, tháng, năm sanh v.v.. mới có thể thẩm định đúng một lá số. Ngoài ra, chúng ta đã thấy có người sanh cùng: giờ, ngày, tháng, năm lại sống cùng làng, nhưng tương lai lại khác nhau.
Xin trích dẫn thời gian 10 năm những năm con Chuột vừa qua và sắp tới có Hành như thế nào:

Nhâm Tý (18.02.1912 đến 05.02.1913) Hành Mộc,
Giáp Tý (05.02.1924 đến 24.01.1925) Hành Kim,
Bính Tý (24.01.1936 đến 10.02.193) Hành Thủy,
Mậu Tý (10.02.1948 đến 28.01.1949) Hành Hỏa,
Canh Tý (28.01.1960 đến 14-02-1961) Hành Thổ,
Nhâm Tý (15.02.1972 đến 02.02.1973) Hành Mộc,
Giáp Tý (02.02.1984 đến 19.02.1985) Hành Kim,
Bính Tý (19.02.1996 đến 06-02-1997) Hành Thủy,
Mậu Tý (07.02.2008 đến 25.01.2009) Hành Hỏa,
Canh Tý (25.01.2020 đến năm 2021(*) Hành Thổ…
(Sưu tầm)

 

Nhãn: , , ,

Chuyện Tình Buồn Đằng Sau Cây Vĩ Cầm Tìm Thấy Trên Tàu Titanic

Chuyện Tình Buồn Đằng Sau Cây Vĩ Cầm Tìm Thấy Trên Tàu Titanic

 

Khi tàu Titanic chìm xuống, ban nhạc danh tiếng trên tàu cũng cùng chịu cảnh bi kịch với nó. Hơn 100 năm sau, người ta tìm thấy cây vĩ cầm của vị nhạc trưởng năm xưa và hé mở chuyện tình đẹp nhưng buồn của ông.

 

Cây vĩ cầm thuộc về nhạc trưởng Wallace Hartley vốn được cho là đã thất lạc nhưng vào năm 2006, con trai của một nhạc công nghiệp dư đã tìm thấy nó trên tầng gác mái nhà mình. Trên thân đàn có một mảnh bạc chạm khắc những thông tin giúp làm rõ nguồn gốc cây đàn.

Sau 7 năm nghiên cứu và tìm hiểu, cả quá trình tốn kém hàng ngàn bảng Anh, cuối cùng người ta đã có thể khẳng định cây vĩ cầm có chất liệu tuyệt vời, chống thấm nước này chính là cây đàn từng được nhạc trưởng Hartley chơi trên tàu Titanic.

Trong những phút đầu tiên khi con tàu Titanic đâm phải tảng băng trôi ngày 14/4/1912, vị nhạc trưởng 24 tuổi được lệnh triệu tập ban nhạc và chơi đàn để giúp hành khách bình tĩnh hơn trước cơn hoảng loạn. 8 nhạc công đã vô cùng dũng cảm đứng biểu diễn trên boong tàu trong khi hành khách tranh nhau leo lên thuyền cứu hộ.

Ban nhạc cứ tiếp tục chơi cho tới khi kết cục bi thảm nhất đến với họ. Được biết trong những giờ phút cuối cùng, họ đã chơi bản thánh ca nổi tiếng “Nearer, My God, To Thee” (Gửi Người, con đang tới gần hơn với Chúa).

Nhạc trưởng Hartley và những 7 thành viên trong ban nhạc và hơn 1.500 hành khách, thủy thủ đoàn đã vĩnh viễn nằm dưới đáy đại dương cùng con tàu huyền thoại rạng sáng ngày 15/4. Cây vĩ cầm đóng bằng gỗ hồng sắc không thể tin nỗi vẫn tồn tại gần như nguyên vẹn cho tới hôm nay bất kể thời gian và việc nó từng nằm sâu dưới đáy biển 10 ngày. Có hai vết nứt dài trên thân bởi nước biển trước đây đã khiến gỗ bị co ngót.

alt
Miếng bạc chạm khắc thông tin gắn trên thân đàn tuy đã bị ăn mòn nhưng vẫn là
bằng chứng đắc lực giúp các nhà khoa học khẳng định được nguồn gốc của nó.


Với tấm lòng của người nghệ sĩ, Hartley trong phút cuối cùng khi tàu sắp chìm hẳn đã bỏ cây vĩ cầm vào chiếc vali bằng da. Nhiều người cho rằng Hartley đã lợi dụng sức nổi của chiếc vali để mong cứu được cả mình và cây đàn. Nhiều người lại cho rằng ông biết mình sẽ chết nên trong phút giây cuối cùng đã ôm chặt lấy tình yêu lớn trong cuộc đời ông – cây vĩ cầm, khi trục vớt, người ta thấy thi thể Hartley ôm chiếc vali đựng đàn.

Cây đàn là do vị hôn thê của ông trao tặng – bà Maria Robinson như một món quà đính ước giữa họ. Trên miếng bạc gắn ở thân đàn có khắc dòng chữ: “Dành tặng anh Wallace nhân ngày đính hôn của chúng mình. Em Maria.” Sau khi trục vớt được cây đàn, người ta đã đem trao trả nó cho bà cùng với những vật dụng cá nhân khác của ông Hartley. Bà Robinson về sau không lấy ai khác và qua đời ở tuổi 59. Cây đàn kể từ đó lưu lạc qua nhiều đời chủ. Sau khi tìm lại được, dự kiến cây đàn quý sẽ được đem triển lãm khắp thế giới kể từ cuối tháng 3 này và sau đó sẽ đem bán đấu giá. Đại diện nhà đấu giá cho biết: “Đây là món đồ quan trọng nhất gắn liền với tên tuổi con tàu Titanic và có lẽ nó cũng là món đồ có giá trị nhất bởi tất cả những câu chuyện gắn liền với lịch sử cây đàn.”

alt
Nhạc trưởng Wallace Hartley và vị hôn thê Maria Robinson

 

alt
Cây đàn được tìm thấy trong chiếc vali da 10 ngày sau khi vụ tai nạn xảy ra.
Nước biển đã làm hỏng thùng đàn với hai vết rạn

 

alt
Wallace trong giây phút cuối đời vẫn nhớ phải bỏ cây đàn vào chiếc vali da.
Tuy vậy, môi trường nước biển vẫn gây ra hai vết rạn trên thân đàn.


Sau này, người ta có tìm thấy cuốn nhật ký của bà Maria Robinson – hôn thê của nhạc trưởng Hartley viết ngày 19/7/1912 rằng: “Mình muốn thể hiện lòng biết ơn vô hạn đối với những người đã mang về đây cây vĩ cầm của anh. Cây vĩ cầm giờ đây là sợi dây kết nối tình yêu giữa chúng ta.” Bà Maria khi đó chỉ xin nhận lại cây vĩ cầm, những món đồ tùy thân của Hartley như hộp đựng thuốc lá bằng bạc hay nhẫn đeo tay bằng vàng đều được gửi lại cho cha của ông.

alt
Chiếc đàn và một vài di vật nhỏ của Hartley mà người ta còn giữ lại được cho tới hôm nay.


Sau khi biết bà Robinson ở vậy, cha của Harley đã vô cùng xúc động và gửi tặng những món di vật nhỏ của con trai cho bà. Chiếc vĩ cầm đặt trong hòm vali da cùng những món đồ lưu niệm được bà Robinson cất giữ cẩn thận cho tới khi bà qua đời. Đáng tiếc, sau đó, những món đồ trong nhà bà bị phân tán đi nhiều nơi và thất lạc không ít. Cây đàn lưu lạc tới tay người chủ hiện nay. Người này xin được giấu tên, từng viết tới cho nhà đấu giá Henry Aldridge & Son: “Tôi nghĩ mình nên làm điều có ý nghĩa nhất đối với cây vĩ cầm. Hiện tại, nó đã không còn chơi được nữa nhưng tôi tin nó có một lịch sử lưu lạc rất đáng kể.”

alt
Lá thư mà mẹ Hartley từng viết cho con trai cũng được tìm thấy trong túi áo của ông khi người ta trục vớt con tàu.


Chiếc đàn sau đó được đưa tới cho các nhà khoa học nghiên cứu, khi thông tin về cây đàn được chính thức khẳng định, nhà đấu giá cho biết họ vô cùng vui sướng và mọi việc quá tuyệt vời đến mức họ không dám tin đó là sự thật. “Chúng tôi đã dành ra 7 năm để thu thập đầy đủ bằng chứng và giờ đây đã đạt đến cái đích cuối cùng.”

alt
Thông điệp tình yêu được chạm trên mảnh bạc gắn ở thân đàn:
“Dành tặng anh Wallace nhân ngày đính hôn của chúng mình. Em Maria.”


Trong những bộ phim và sách truyện kể về tàu Titanic, người ta luôn khắc họa hình ảnh nhạc trưởng Wallace Hartley chơi cây vĩ cầm.

alt
Một món đồ trang sức nhỏ của bà Maria Robinson
có lồng tấm hình của hôn phu.

 

alt
Tàu Titanic lúc rời cảng Southampton tháng 4/1912 để bắt đầu chuyến hải trình bi kịch.


Nguồn: DailyMail

 

Nhãn:

Giao Tiên – Nhạc sĩ tài hoa, lận đận

Giao Tiên – Nhạc sĩ tài hoa, lận đận

Tác giả của Cô Thắm về làng, Vó ngựa trên đồi cỏ non,… đã lấy lại quyền tác giả của mình sau hàng chục năm bị người khác chiếm dụng.

Vào đầu tháng 8 này, nhạc sĩ Giao Tiên sẽ cho phát hành tuyển tập nhạc gồm 70 bài để kỷ niệm tuổi 70 – trong đó hai phần ba là những tình khúc đã làm nên tên tuổi Giao Tiên và đi vào lòng công chúng từ 40 năm qua. Đây chỉ là một phần trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Giao Tiên (gần 700 ca khúc) mặc dù ông bắt đầu sáng tác khá muộn, khi đã ở tuổi 30, và không viết gì trong gần 20 năm sau 1975…

Hai mươi năm “mất tích”

Sau năm 1975, nhiều cá nhân mượn danh “bạn của Giao Tiên” cũng như nhiều hãng băng đĩa trong và ngoài nước đã liên tục in ấn, phát hành nhạc Giao Tiên trong hơn 10 năm mà chẳng hỏi qua tác giả một tiếng – thậm chí họ còn bỏ tên Giao Tiên để điền tên người khác vào! Có lẽ họ tưởng Giao Tiên đã… chết hay mất tích! Mà thật sự gần như nhạc sĩ Giao Tiên đã “mất tích” sau năm 1975.

Nhạc sĩ Giao Tiên ở tuổi 70 (ảnh do nhân vật cung cấp)

Nhạc sĩ kể sau giải phóng, ông dắt vợ con đi kinh tế mới ở Bù Đăng, Sông Bé. Suốt 10 năm làm rẫy, trồng trọt không ra sao, nhạc sĩ Giao Tiên lại dắt vợ, con lên Lâm Đồng, nơi người cháu có một lò đường, làm thợ nấu đường và lấy mật mía nấu rượu. Thất bại, chuyển sang trồng rau củ cũng không thành công, năm 1989, ông đưa bầu đoàn thê tử xuống Cam Ranh nuôi tôm.

Tôm chết, sạt nghiệp, bán đìa trả nợ. Rồi vợ chồng chuyển sang nghề nấu bánh chưng. Vợ gói, chồng nấu, chở đi bỏ mối, bán dạo. Thế mà cũng kiếm đủ tiền nuôi con ăn học. Năm 1993, đang đi bỏ mối bánh chưng, nhạc sĩ Giao Tiên nghe loa của người bán cà-rem phát nhạc mình. Cả đĩa toàn nhạc của Giao Tiên do hãng Vafaco ấn hành. Ông vào Sài Gòn, đến tận hãng đĩa Vafaco để hỏi rõ ngọn ngành, té ra một người bạn cũ đã bán nhạc của ông cho Vafaco.

Chịu nhiều thiệt thòi

Về chuyện bị ăn cắp bản quyền, thay tên tác giả, nhạc sĩ Giao Tiên tâm sự: “Có lẽ ở Việt Nam, tôi là nhạc sĩ chịu nhiều thiệt thòi nhất trong nhiều năm. Giờ thì đỡ hơn rồi, nhưng những thủ đoạn ăn cắp bản quyền vẫn còn rình rập mà mình không lường trước được”.

Năm nay đã bước sang tuổi 70, cái tuổi mà người Đông phương xưa vẫn cho là “cổ lai hy”, nhưng nhạc sĩ Giao Tiên còn khá khỏe khoắn, nhanh nhẹn và lạc quan yêu đời, yêu người với đôi chút hồn nhiên.

Nghi ngờ là phải, bởi đã có biết bao hãng băng đĩa ở hải ngoại đã cho phát hành rất nhiều ca khúc của Giao Tiên mà chẳng đếm xỉa gì đến tác giả.

Đó là các trung tâm Thúy Nga, ASIA, Vân Sơn, Người đẹp Bình Dương… Chẳng những thu đĩa, phát hành thoải mái nhạc của Giao Tiên mà họ còn “thay tên, đổi họ” tác giả. Cụ thể: bài Cô Thắm về làng, Trung tâm Thúy Nga giới thiệu là của Hoàng Thi Thơ, bài Vó ngựa trên đồi cỏ non, trung tâm này lại giới thiệu của Ngân Giang! Đặc biệt, cây hài Vân Sơn tự ý thu đĩa 4 bài của Giao Tiên, ông đã liên lạc đòi mãi, Vân Sơn mới trả được 200 USD! Ông Vân Sơn còn lừa Giao Tiên gửi cho ông nhiều bài để làm album nhưng rồi ông này xé lẻ ra thu VCD từng bài một, cụ thể như Chôn vùi tâm sự, Nhớ nhau trong đời, Hào hoa… mà chẳng đề tên tác giả cũng chẳng trả tiền bản quyền.

Giao Tiên gọi điện sang Mỹ, thấy số Giao Tiên là Vân Sơn cúp máy. Đã hơn 10 năm nay, Vân Sơn vẫn cứ lẩn trốn. Và còn nhiều, rất nhiều ca sĩ hải ngoại như Phi Nhung, Tuấn Vũ, Trường Vũ… cũng đã tự ý lấy nhiều bài nổi tiếng của Giao Tiên thu âm, phát hành. Thậm chí có người còn đổi tên bài hát, tên tác giả, như bài Hình bóng người yêu đã bị Phi Nhung đổi thànhNgười yêu hoa tím! Ba ca sĩ nói trên đã thu của Giao Tiên gần cả trăm bài hát nhưng lờ đi chẳng trả một đồng nhuận bút!

Ở trong nước, một thời gian dài hơn 20 năm, nhiều người tưởng Giao Tiên đã chết nên mặc sức lấy nhạc của ông in ấn, phát hành, thu băng đĩa, thay đổi tên tác giả. Đặc biệt nghiêm trọng nhất phải kể đến trường hợp V.S – một người cũng viết nhạc là chỗ quen biết với Giao Tiên trước năm 1975. Năm 1973, nhạc sĩ Giao Tiên có bán bản quyền cho V.S – lúc đó đang làm chương trình thu băng nhựa Akai và in nhạc tờ rời – bài Điệu ru ca tình yêu.

Khi in tên tác giả, ông này đã thêm tên mình bên cạnh Giao Tiên! Năm 1996, V. S đã lấy nhiều bài của Giao Tiên ký bán bản quyền và đề tên tác giả là Hữu Minh. Đó là các bài Mưa bụi hoàng hôn và Còn đây câu hát lý theo chồng. Từ năm 1996 đến năm 1998, V.S đã lấy mấy chục bài của Giao Tiên bán cho hãng sản xuất Karaoke Phú Nhuận, trong đó có các bài nổi tiếng: Cô Thắm về làng, Tình đẹp mùa chôm chôm, Đường về quê, Quán gấm đầu làng… Toàn bộ các bài hát đều đề tên tác giả là V.S! Thậm chí năm 2006, V.S in 2 tập nhạc, trong đó có tới 21 bài nổi tiếng của Giao Tiên, có bài ông đề tác giả V.S, có bài đề tên chung với Giao Tiên, một số bài V.S đề tên vợ, con ông! Mãi đến khi các báo lên tiếng, Trung tâm Bảo vệ Quyền tác giả âm nhạc phía Nam vào cuộc, V.S mới nhận sai trái và ký vào biên bản trả lại quyền tác giả cho nhạc sĩ Giao Tiên  (danh sách đến 90 bài!).

Âm nhạc là cơ duyên

Hồi còn học trung học, có lẽ do ảnh hưởng của người anh tham gia cách mạng, nhạc sĩ Giao Tiên đã mê và chép thơ Tố Hữu vào tập học trò, bị mật vụ chế độ Ngô Đình Diệm phát hiện, bắt giam ở nhà lao Biên Hòa.

Cũng là cái duyên may, trong tù có một ông thầy giáo dạy nhạc bị tình nghi Việt cộng thấy Dương Trung (tên thật của nhạc sĩ Giao Tiên) ăn nói dễ thương lại mê nhạc, ông đã dạy nhạc lý căn bản cho.

Sau đảo chính Ngô Đình Diệm, đầu năm 1964, ông được trả tự do, rồi bị bắt quân dịch, nhưng cơ duyên lại đưa Dương Trung làm lính cần vụ (hầu cận). Ở đây quá rảnh rang, Dương Trung bèn tập tễnh viết nhạc. Quán gấm đầu làng, Cô Thắm về làng, Tình đẹp mùa chôm chôm, Vó ngựa trên đồi cỏ non… những nhạc phẩm đã làm nên tên tuổi Giao Tiên và đi vào lòng người hâm mộ từ hơn 40 năm qua.

Âm nhạc Giao Tiên vốn gần gũi với âm điệu dân ca, ca từ mộc mạc, chân thành (giống như tính cách con người Giao Tiên) nên dễ nhập tâm người nghe. Rất nhiều ca khúc của Giao Tiên đã đi vào tiềm thức, đồng hành với vài thế hệ.

Theo Phạm Chu Sa (NLĐ)

 

Nhãn:

Ngày thơ Việt Nam 2013 làm sống dậy hào khí yêu nước

Ngày thơ Việt Nam 2013 làm sống dậy hào khí yêu nước

Từ âm vang hào sảng của ‘Nam quốc sơn hà’ tới những vần thơ về Tổ quốc bật ra từ tấm lòng những người trẻ, không khí yêu nước lan truyền khắp hội thơ 2013.

Cả những người trình diễn lẫn những người đi xem hội thơ năm nay dường như mang sẵn ngọn lửa yêu nước âm ỉ trong lòng, chỉ chờ “ngọn lửa thơ” thắp lên để cùng sẻ chia và lan tỏa. “Ngọn lửa thơ” ấy, vào 9h sáng 24/2 đã bùng cháy. Trong tiếng chiếng trống rộn ràng, kiệu hoa, cờ lọng, Ngày thơ Việt Nam 2013 khai cuộc bằng màn rước thơ linh đình và long trọng. Đám rước do các nghệ sĩ Nhà hát kịch Việt Nam hóa trang, ăn mặc như vua, hoàng hậu, quan quân, tướng sĩ triều đình oai vệ đi qua Văn Miếu Môn, qua Đại Trung Môn. Ngang Thiên Quang tỉnh, bóng kiệu hoa, cờ lọng in xuống mặt giếng mùa xuân, cơ hồ trong phút chốc, thời gian như ngược lại mấy trăm năm, thấp thoáng bóng dáng của những vương triều Việt Nam trọng thị văn chương, thơ phú. Người đi xem hội tưởng như lạc vào một đám rước thơ rằm tháng Giêng của một thời kỳ lầu son gác tía đã lùi vào quá vãng trong lịch sử Việt Nam.

Rước thơ chào mừng Ngày thơ Việt Nam lần thứ 11.

Rước thơ chào mừng Ngày thơ Việt Nam lần thứ 11.

Sau bài phát biểu khai mạc Ngày thơ 2013 của Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam – nhà thơ Hữu Thỉnh – những câu thơ trong bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” – lời sấm truyền khẳng định chủ quyền dân tộc từng hai lần vang lên trong lịch sử dân tộc – lại một lần nữa cất lên đanh thép và hào sảng trên sân khấu Ngày thơ Việt Nam lần thứ 11.

“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Những câu thơ với lý lẽ hùng hồn – không gì có thể xâm phạm núi sông bờ cõi nước Việt – không xa lạ với bất cứ ai tới hội thơ. Nhưng khi bài thơ đường hoàng vang lên trên sân Thái Miếu, trong bối cảnh đất nước đang sôi sục vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo, nó khiến không ít người xúc động. Chính từ đây, ngọn lửa yêu nước được đốt lên, lan tỏa trong lòng người xem hội. Đó cũng là mạch nguồn chính xuyên suốt ngày hội thi ca lớn nhất cả nước diễn ra ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám năm nay. Khi đám rước thơ đã lui, sân khấu nhường chỗ cho màn đọc thơ cầu quốc thái dân an của đại đức Thích Trường Xuân, trụ trì chùa Long Đẩu. Những em gái mặc dài trắng, rắc hoa trong tiếng thơ của đại đức là một khoảnh khắc đẹp, hợp với khí trời mát lành, thanh tịnh của ngày Rằm tháng Giêng Quý Tỵ.

IMG-7417-jpg-1361708227_500x0.jpg

Bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” vang lên hào sảng trên sân khấu Ngày thơ Việt Nam 2013.

Nếu như ngọn lửa thơ – ngọn lửa yêu nước được thắp lên trên sân thơ truyền thống, thì Sân thơ trẻ mới là nơi đốt cho ngọn lửa này bùng cháy mãnh liệt. Mở màn với “Bay qua biển Đông” của ban nhạc M4U và màn nhảy hiphop của nhóm MA-NIA, Sân thơ trẻ đã báo hiệu một sự đột phá. Điểm mới mẻ và khác biệt của Sân thơ trẻ năm nay là không chỉ có sự tham gia của những nhà thơ tiêu biểu trên khắp vùng miền đất nước mà còn có sinh viên của các trường đại học với những tiết mục đã tham gia cuộc thi sáng tác và trình diễn thơ do Hội nhà văn Việt Nam tổ chức, diễn ra trong hai ngày trước đó – 22 và 23/2. Phần trình diễn thơ – nhạc của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Học viện Báo chí – tuyên truyền, Đại học Đại Nam, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Bách Khoa với chủ đề chính là “Tuổi trẻ với Tổ quốc” mang một luồng nhiệt huyết tươi mới, năng động và khỏe khoắn cho Ngày hội thơ.

Lần đầu tiên góp mặt trên sân khấu Ngày thơ Việt Nam, những gương mặt trẻ trung đến từ các trường đại học không giấu nổi sự tự hào và thể hiện hết mình. Nữ sinh viên Phan Thị Ngọc Mai đến từ Khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội sau khi đọc bài thơ “Các cô gái trên đài quan sát” (tác giả Bùi Công Minh) chia sẻ: “Khi được biết chủ đề của ngày thơ năm nay là Tuổi trẻ với Tổ quốc, em nghĩ ngay đến bài thơ được sáng tác từ cách đây 40 năm nhưng mới được công bố vào ngày kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ trên không. Em muốn đọc bài thơ này để thể hiện thông điệp về sứ mệnh của những người thanh niên đối với đất nước. Bốn mươi năm trước, các cô cũng bằng tuổi bọn em, cũng là những người thanh niên như thế, nhưng khi đất nước có chiến tranh, các cô đã thể hiện tình yêu, trách nhiệm của mình. Giờ đây, là thời bình nhưng đất nước trong những hoàn cảnh khác nhau đều cần đến sứ mệnh khác nhau của người sinh viên”. Ngọc Mai chia sẻ, tình yêu đất nước ở trong ai cũng có, nhất là sinh viên – những con người luôn sẵn bầu nhiệt huyết, vấn đề là biết cách đánh thức nó dậy, làm cho nó sống lên và cùng tạo thành một phong trào. “Dù Tổ quốc có thể nào thì tất cả thanh niên đều sẽ đứng lên và đứng về phía Tổ quốc mình”, cô sinh viên năm thứ ba nói.

IMG-7495-jpg-1361708227_500x0.jpg

Màn trình diễn thơ – nhạc về Tổ quốc của Đại học Đại Nam.

Tuy vậy, sự góp mặt của sinh viên tại Ngày thơ năm nay vẫn thiên về tính phong trào, khơi dậy khí thế hơn là đi vào chiều sâu, sức nặng của thơ. Ấn tượng trên Sân thơ trẻ năm nay vẫn là phần trình diễn của 9 nhà thơ do Ban Nhà văn Trẻ Hội nhà văn Việt Nam tổ chức và dàn dựng. Năm nay, khác mọi năm, không có màn trình diễn tách biệt nào. Các nhà thơ cùng kết hợp tạo thành hai tổ khúc: Tổ Quốc và Tình yêu. Thụy Anh, Nguyễn Minh Cường, Miên Di, Quang Hưng, Vũ Thiên Kiều, Lữ Thị Mai, Du Nguyên, Bình Nguyên Trang, Nguyễn Anh Vũ cùng sống trong cảm xúc đầy suy nghiệm về Tổ Quốc với hình hài, vóc dáng, những tấc đất như da thịt máu xương con người: “Mẹ Tổ Quốc tôi / đôi bầu ngực đảo / bốn nghìn năm nhức sữa nuôi con”. Cao trào là khi những vần thơ về Trường Sa vang lên: “Trường Sa ơi! Sự bất diệt tạc trong dáng hình người chiến sĩ / Hiên ngang như cột mốc chủ quyền” hay khi 9 nhà thơ cùng hòa giọng: “Đứng trước biển chiều váng vất / Cổ tích còn rắc lông ngỗng đến ngày nay / Đứng trước biển buổi chiều sự thật / Có một ngày nén lại bởi hờn căm”.

Tổ khúc Tình yêu lại mang đến những cung bậc từ hồn nhiên, thơ trẻ, vụng dại của buổi ban đầu như “Có một chùm một chùm những tiếng chim non / có một chùm một chùm hoa nắng/ một chùm em thẩn thơ ô cửa mùa hè” của Lữ Thị Mai tới những giận dỗi, yêu thương, tha thứ, bao dung trong giọng thơ của những nhà thơ còn lại. Vũ Thiên Kiều đến từ Kiên Giang chia sẻ, cái hay của chương trình năm nay đó là đạo diễn Phan Huyền Thư đã xây dựng một kịch bản lồng ghép hoàn hảo và xúc động mà ở mỗi tổ khúc, các nhà thơ vừa đọc được tiếng thơ riêng của mình lại vừa hòa giọng làm nên một trường ca về Tổ quốc hay một bản tình ca đa giọng điệu, đa sắc thái như chính cảm xúc của mỗi con người.

IMG-7600-jpg-1361708228_500x0.jpg

Tổ khúc Tổ quốc của 9 nhà thơ gây xúc động tại Sân thơ trẻ năm nay.

Dường như Ngày thơ Việt Nam đã trở thành một phần không thể thiếu, một ngày hội chung của những người yêu thơ Rằm tháng Giêng mỗi năm. Và Văn Miếu – Quốc Tử Giám cũng là địa chỉ thân thuộc mà mỗi tín đồ thi ca đều cảm thấy trân trọng, thiêng liêng hơn khi bước chân tới những ngày này. Ngày hội thơ 2013 đông nghịt người, từ già tới trẻ, từ bạn yêu thơ trong nước tới du khách nước ngoài. Sân Thái Miếu chật kín từ khi lễ rước thơ khai màn và chỉ giãn ra một phần khi giới trẻ đổ về sân chơi của mình – Sân thơ trẻ. Tình yêu thơ vẫn hân hoan trên nhiều gương mặt. Trong số những con người đó, có ba anh em trong một gia đình ở Hà Nội. Họ đặc biệt bởi cả ba đều đã về hưu, ở độ tuổi trên dưới thất thập. Họ yêu thơ và đã cùng nhau tới Ngày thơ Việt Nam hơn 10 năm nay. Người ít tuổi nhất trong ba anh em, bà Phùng Thị Vân Anh, phân trần trong vui vẻ: “Tôi bận lắm nhưng vì hai anh ấy giục đi nên tôi phải bỏ việc mà đi đấy”. Bà còn liên tục giục ông Phùng Tiến Đức – anh trai của mình – bằng giọng điệu trìu mến của một cô em: “Anh phải nói đi. Nói anh yêu thơ như thế nào, vì sao mà năm nào anh cũng đến hội thơ này”. Ông Đức chia sẻ: “Chúng tôi tham dự hội thơ từ 10 năm nay. Những năm trước tôi ở Nam Định nhưng cứ đến Ngày thơ thì lại lên đây. Tôi đến vì tấm lòng yêu thơ, vì có thơ thì mới thấy cuộc sống này có ý nghĩa. Mỗi năm tôi lại thấy có nhiều điều mới mẻ, đặc biệt là Sân thơ trẻ. Và tôi đi tìm những điều mới mẻ đó như đi tìm mùa xuân của mình. Tại Sân thơ trẻ năm nay, tôi thấy tình yêu với Tổ quốc được khơi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nó giúp cho thế hệ trẻ cũng như bản thân tôi hướng về biển đảo, để cho chúng ta có được một quyết tâm cao bảo vệ quê hương, đất nước”.

Ông Đức, bà Vân Anh đều cảm động trước tổ khúc Tổ quốc của các nhà thơ trẻ Việt Nam. Bà Vân Anh xen vào khi anh mình đang nói: “Nghe, xem thì thấy những người trẻ họ có trách nhiệm lắm, họ yêu quê hương, đất nước lắm”. Bà Vân Anh cho biết, ba anh em đến Ngày thơ để “Nghe, nhìn và cảm nhận. Có khi không nghe, không nhìn thấy gì cụ thể nhưng cảm nhận được, chia sẻ được với bạn bè, với những người yêu thơ”.  Ông Nguyễn Văn Ưởng đi cùng ông Đức, bà Vân – anh rể của hai người – đau họng nhưng liên tục gật đầu đồng tình với hai người em. Cả ba cùng nhau nghe thơ, xem sách, mua sách về nhà. Họ chia sẻ với nhau một thứ cảm xúc hồn nhiên với thơ, sự đồng điệu với nhau, dù tuổi đã cao, điều mà chỉ những người phải giữ được tâm hồn thơ trẻ lắm mới có được.

IMG-7625-jpg-1361708228_500x0.jpg

Ba anh em: Bà Vân An, ông Ưởng, ông Đức đi xem hội thơ.

Cũng tại Ngày thơ Việt Nam 2013, Chu Thị Thu Hằng, giáo viên văn tại trường PTTH Sơn Tây, thị xã Sơn Tây, Hà Nội đi xe máy mấy chục cây số tới Văn Miếu để tham dự. Chị chia sẻ: “Đến với Sân thơ trẻ năm nay, tôi cảm nhận được những điều mình băn khoăn trăn trở mà chưa nói ra được, những điều mình còn đang suy nghĩ, chiêm nghiệm thì các nhà thơ trẻ đã nói hộ và cảm nhận được sự nối kết rất lớn với các nhà thơ”. Trên tay cầm cuốn “Lolita”, chị Hằng nói: “Tôi muốn mua quyển sách này để khi có thời gian rảnh rỗi sẽ giở ra đọc và để nhắc rằng ngày hôm đó mình đã đến với ngày hội thơ Văn Miếu, như một kỷ niệm đẹp của bản thân”.

Ngày thơ Việt Nam lần thứ 11 kết thúc bằng màn thả thơ truyền thống, hứa hẹn một năm khởi sắc của Thơ với Tuổi trẻ, với Tổ quốc và Tình yêu.

Hoàng Anh

(Nguồn vnexpress)

 
 

Nhãn: ,

Xin bạn hãy dành ra 2 phút để đọc cái này: Phòng tránh HIV

Xin bạn hãy dành ra 2 phút để đọc cái này!

Sẽ rất nguy hiểm nếu như bạn bỏ qua

 

 Hình ảnh: XIN BẠN HÃY DÀNH RA 2 PHÚT ĐỂ ĐỌC CÁI NÀY!<br />SẼ RẤT NGUY HIỂM NẾU NHƯ BẠN BỎ QUA</p><p>... Cách đây vài tuần, trong một rạp hát, một người cảm thấy có vật gì đó chĩa ra từ ghế của cô ấy. Khi cô ấy đứng dậy để xem đó là vật gì thì thấy một cây kim nhô ra khỏi ghế kèm theo một mảnh giấy ghi là:</p><p>“Bạn vừa mới nhiễm HIV”…<br />Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật báo cáo rằng gần đây nhiều trường hợp tương tự đã xảy ra tại nhiều thành phố khác. Tất cả các cây kim được xét nghiệm đều là HIV dương tính.</p><p>Trung tâm này cũng báo cáo rằng người ta tìm thấy những cây kim như vậy tại các máy rút tiền công cộng (máy ATM). Chúng tôi yêu cầu mọi người hãy cực kỳ cẩn trọng khi đối mặt với tình huống như vậy. Cần phải xem xét thận trọng tất cả các ghế ngồi nơi công cộng trước khi ngồi. Kiểm tra kỹ lưỡng bằng mắt là đủ. Thêm vào đó, các bạn hãy chuyển thông điệp này đến các thành viên trong gia đình của mình và bạn bè để họ biết về mối hiểm nguy tiềm tàng này.</p><p>Gần đây một bác sĩ đã thuật lại một trường hợp tương tự đã xảy đến với một trong những bệnh nhân của ông tại rạp hát. Một cô gái đã đính hôn và chuẩn bị kết hôn trong vài tháng nữa, đã bị đâm phải khi đang xem phim. Mảnh giấy đi kèm theo chiếc kim có thông điệp sau:</p><p>“Chào mừng bạn đến với thế giới của gia đình HIV”.<br />Mặc dù các bác sĩ nói với gia đình cô ấy là phải mất 6 tháng vi-rút mới đủ mạnh để bắt đầu phá huỷ hệ miễn dịch và một bệnh nhân khoẻ mạnh có thể sống khoảng 5 – 6 năm, nhưng cô gái đã chết sau 4 tháng, có thể chủ yếu là do bị sốc</p><p>Một số đối tượng dùng kim tiêm dính máu HIV trả thù đờ<br />Tất cả chúng ta đều phải cẩn thận khi ở những nơi công cộng. Cầu Trời phù hộ! Hãy nghĩ rằng các bạn sẽ cứu lấy một cuộc đời bằng cách chuyển thông điệp này đi. Vui lòng bỏ ra một vài giây để chuyển nó đi…<br />Bị dẫm kim tiêm chứa HIV. Đừng lo lắng mà bĩnh tĩnh xử lý theo những bước sau:<br />1) Bạn phải nặn máu ra</p><p>2) Ghé vào nhà người dân gần nhất xin xà phòng bôi vào vết thương để sát trùng rồi rửa sạch</p><p>3) Trong vòng 24h đến cơ sở y tế gần nhất mua thuốc chống phôi nhiễm HIV. Lưu ý thuốc chỉ có tác dụng trong vòng 72h, uống liên tục trong vòng 4 tuần.</p><p>Vì lợi ích của cộng đồng hãy send tin này cho tất cả mọi người. Vì chỉ bằng tin nhắn này của bạn, bạn có thể cứu sống được một mạng người đấy!</p><p>CÁC BẠN HÃY CẨN THẬN</p><p>HÃY SHARE CÁI NÀY ĐỂ MỌI NGƯỜI BIẾT ĐỂ ĐỀ PHÒNG

… Cách đây vài tuần, trong một rạp hát, một người cảm thấy có vật gì đó chĩa ra từ ghế của cô ấy. Khi cô ấy đứng dậy để xem đó là vật gì thì thấy một cây kim nhô ra khỏi ghế kèm theo một mảnh giấy ghi là:

 

“Bạn vừa mới nhiễm HIV”…

Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật báo cáo rằng gần đây nhiều trường hợp tương tự đã xảy ra tại nhiều thành phố khác. Tất cả các cây kim được xét nghiệm đều là HIV dương tính.

 

Trung tâm này cũng báo cáo rằng người ta tìm thấy những cây kim như vậy tại các máy rút tiền công cộng (máy ATM). Chúng tôi yêu cầu mọi người hãy cực kỳ cẩn trọng khi đối mặt với tình huống như vậy. Cần phải xem xét thận trọng tất cả các ghế ngồi nơi công cộng trước khi ngồi. Kiểm tra kỹ lưỡng bằng mắt là đủ. Thêm vào đó, các bạn hãy chuyển thông điệp này đến các thành viên trong gia đình của mình và bạn bè để họ biết về mối hiểm nguy tiềm tàng này.

 

 

Gần đây một bác sĩ đã thuật lại một trường hợp tương tự đã xảy đến với một trong những bệnh nhân của ông tại rạp hát. Một cô gái đã đính hôn và chuẩn bị kết hôn trong vài tháng nữa, đã bị đâm phải khi đang xem phim. Mảnh giấy đi kèm theo chiếc kim có thông điệp sau:

 

“Chào mừng bạn đến với thế giới của gia đình HIV”.

Mặc dù các bác sĩ nói với gia đình cô ấy là phải mất 6 tháng vi-rút mới đủ mạnh để bắt đầu phá huỷ hệ miễn dịch và một bệnh nhân khoẻ mạnh có thể sống khoảng 5 – 6 năm, nhưng cô gái đã chết sau 4 tháng, có thể chủ yếu là do bị sốc

 

 

Một số đối tượng dùng kim tiêm dính máu HIV trả thù đời

Tất cả chúng ta đều phải cẩn thận khi ở những nơi công cộng. Cầu Trời phù hộ! Hãy nghĩ rằng các bạn sẽ cứu lấy một cuộc đời bằng cách chuyển thông điệp này đi. Vui lòng bỏ ra một vài giây để chuyển nó đi…

Bị dẫm kim tiêm chứa HIV. Đừng lo lắng mà bĩnh tĩnh xử lý theo những bước sau:

1) Bạn phải nặn máu ra

 

2) Ghé vào nhà người dân gần nhất xin xà phòng bôi vào vết thương để sát trùng rồi rửa sạch

 

3) Trong vòng 24h đến cơ sở y tế gần nhất mua thuốc chống phôi nhiễm HIV. Lưu ý thuốc chỉ có tác dụng trong vòng 72h, uống liên tục trong vòng 4 tuần.

 

Vì lợi ích của cộng đồng hãy send tin này cho tất cả mọi người. Vì chỉ bằng tin nhắn này của bạn, bạn có thể cứu sống được một mạng người đấy!

 

Các bạn hãy cẩn thận

 

Hãy share cái này để mọi người biết để đề phòng

(Sưu tầm)

 
 

Nhãn: ,

Nghệ sĩ Việt ngậm ngùi tiếc nhớ Phạm Duy

Nghệ sĩ Việt ngậm ngùi tiếc nhớ Phạm Duy

Ánh Tuyết bùi ngùi vì không kịp ra đĩa nhạc tặng Phạm Duy còn Tùng Dương buồn đến nỗi ngừng ngang công việc thu âm anh đang làm khi nghe nhạc sĩ tài hoa qua đời.

Ánh Tuyết: “Buồn khi không kịp mang đĩa đến tặng ông!”

Từ khi học lớp 3, lớp 4 tôi đã biết hát và yêu nhạc Phạm Duy. Ngày ấy, tuy chưa hiểu hết ý nghĩa của những ca khúc như Tình hoài hương, Đưa em tìm động hoa vàng, Ngày xưa Hoàng Thị, Áo anh sứt chỉ đường tà… tôi đã say mê và ngấm vào lòng những giai điệu trữ tình ấy. Ngày đó, ở quê, tôi còn được mọi người gọi với nickname là “Tình hoài hương” vì còn bé tý mà đã thể hiện thành công nhạc phẩm này.

pham-duy-2-jpg-1359284292-1359284296_500

Ánh Tuyết thăm Phạm Duy ngày ông nằm cấp cứu ở bệnh viện cách đây không lâu.

Trên con đường âm nhạc của mình, tôi dành cho Phạm Duy sự kính trọng, yêu mến gia tài âm nhạc đồ sộ mà ông để lại. Trong nhạc Phạm Duy có tình yêu quê hương, yêu đất nước, cuộc sống… nhưng nhiều nhất là sự đa tình – tình yêu đôi lứa…. thứ tình yêu duyên dáng, mặn mà, rất Việt Nam mà hiện đại.

Từ lâu tôi đã ấp ủ thực hiện album nhạc riêng về nhạc sĩ Phạm Duy. Nhưng do thời gian, do bận bịu và nhiều yếu tố khách quan, đến gần đây tôi mới có thể bắt tay vào thực hiện. Những ngày cuối đời, ông đều giữ sự vui vẻ, lạc quan và rất vui khi mỗi khi tôi ghi âm được bài hát nào đó gửi qua email cho ông nghe. Tôi rất buồn khi chưa kịp hoàn thành bộ 3 album này để đến khoe với ông như mong muốn.

Cẩm Vân: “Ông ra đi để lại mất mát lớn cho nền âm nhạc!”

Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời là một mất mát lớn của nền tân nhạc Việt Nam. Tôi nhớ tiếc vừa ở góc độ một người ca sĩ thể hiện nhạc phẩm của ông vừa như một khán giả yêu thích các ca khúc của Phạm Duy. Chỉ cần nhìn vào gia tài hàng nghìn sáng tác của ông, mà phần lớn đều hay, đều đi vào lòng người nhờ vào sự hòa quyện giữa nét hiện đại và truyền thống, mới thấy được sức làm việc đáng nể cũng như sự đóng góp rất lớn của ông cho âm nhạc Việt.

Ca khúc của ông, dù sáng tác hay phổ thơ, đều tinh tế, tài hoa về giai điệu, truyền thống ra truyền thống, hiện đại ra hiện đại. Trong số các sáng tác ấy, tôi yêu nhất là bài hát Áo anh sứt chỉ đường tà. Mỗi lần thể hiện nhạc phẩm này, tôi đều cảm phục nhạc sĩ ở việc ông dồn nén được mọi cung bậc cảm xúc vào bài hát. Mọi hỷ, nộ, ái, ố… đều được gửi vào nhạc điệu.

Quang Hà: “Ông có nhiều ca khúc đi vào lòng người!”

Quang Hà khá bàng hoàng khi nhận được tin Phạm Duy Mất. Anh cho biết, những ca khúc của Phạm Duy đã đi vào lòng người mộ điệu trong và ngoài nước. Sự ra đi của ông là một mất mát lớn cho nền âm nhạc Việt Nam. Nam ca sĩ Hà Nội chia sẻ, anh thường chọn ca khúc Cây đàn bỏ quên để hát thường xuyên trong các phòng trà ca nhạc tại TP HCM và được nhiều người yêu mến. Đây cũng là bài hát “tủ” của anh trong sự nghiệp ca hát.

19-1350380996-480x0-jpg-1359284178_500x0

Ca sĩ Mỹ Lệ.

Mỹ Lệ: “Phạm Duy đã sống trong sự yêu thương của mọi người”

Đang chuẩn bị cho đêm nhạc Cặp đôi hoàn hảo, khi được biết thông tin Phạm Duy qua đời, Mỹ Lệ cũng không khỏi chua xót.

Chị bùi ngùi, hiếm có một nhạc sĩ nào có tinh thần lạc quan và yêu đời như Phạm Duy. “Con người già rồi cũng có lúc phải ra đi nhưng nhìn lại quãng đời của nam nhạc sĩ, ông có phúc vì được sống trong sự yêu thương của người hâm mộ”, chị nói.

Nữ ca sĩ cho biết, chị từng có vinh dự thể hiện các tác phẩm của ông: Tôi đang mơ giấc mộng dài,  Kiếp nào có yêu nhauTiếng đàn tôiKiếp nào mói yêu nhau. Theo chị, nhạc Phạm Duy đòi hỏi ca sĩ có một quãng rộng và nội lực thâm hậu. Chị cho rằng, âm nhạc của ông vừa bác học vùa gần gũi, thân quen.

Nhạc sĩ Quốc Bảo: “Phạm Duy để lại màu sắc âm nhạc chỉ riêng ông có!”

Nhạc sĩ Quốc Bảo chia sẻ trên trang các nhân: “Ở ngoài đời, tôi chỉ trò chuyện với ông đúng ba lần: khi ông về nước lần đầu, khi làm đĩa Những bài tình Duy Quang(2005) và khi làm concert Đêm Hiền cho chị Thái Hiền (2006). Nhưng Phạm Duy là nguồn cảm hứng và ảnh hưởng lớn đến âm nhạc của tôi (giai đoạn Vàng Son) vì bằng tài năng của ông, ông đã ‘bắt’ tiếng Việt và ngũ cung Việt phải vang lên một cách đẹp đẽ nhất, thiết tha nhất, giàu âm hưởng nhất. Gần như một mình một cách không lẫn vào đâu, bằng những sáng tạo về lai ghép điệu thức, ông đã rải thảm hoa với màu sắc chỉ riêng ông có, cho khu vườn ca khúc Việt. Tôi viết đoạn này để tưởng niệm ông”.

duong-jpg-1359283458_500x0.jpg

Ca sĩ Tùng Dương bên nhạc sĩ Phạm Duy.

Tùng Dương: “Quá buồn về sự ra đi của ông”

Tôi đang thu âm thì nhận được tin về cái chết của Phạm Duy. Tôi quá buồn và không thể hát được nữa trước hung tin này. Không thể buồn hơn được nữa… Tôi là một trong nhiều ca sĩ yêu nhạc của ông. Sự ra đi của ông khiến không chỉ tôi mà hàng ngàn người yêu nhạc Việt Nam phải tiếc thương. Tôi dành một phút cúi đầu trước vong linh của ông.

Tang lễ nhạc sĩ Phạm Duy được tổ chức tại tư gia ở Lê Đại Hành, Phường 13, Quận 11, TP HCM. Lễ nhập quan diễn ra lúc 9h ngày 28/1. Lễ động quan lúc 6h ngày 3/2. Nhạc sĩ Phạm Duy sẽ yên nghỉ tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương.

Hoàng Dung – Thoại Hà ghi

(Nguồn vnexpress)

 
1 bình luận

Posted by trên 27.01.2013 in 360°

 

Nhãn: ,

Cảnh báo: Không nên cầm dùm đồ ở sân bay

Cảnh báo: Không nên cầm dùm đồ ở sân bay

 Ở sân bay, ĐỪNG BAO GIỜ cầm giùm chai nước hay bất cứ thứ gì cho ai, dù là trong vài giây.

Đây là lời cảnh báo của một nhân viên làm việc tại sân bay: Nếu bạn mua một chai nước ở sân bay, hãy kiểm tra nó cho kỹ trước khi lấy. Coi chừng nhận phải chai nước giả.

HÃY CẨN TRỌNG!!! Tại sân bay hay bất cứ nơi nào gần với dịch vụ hải quan, đừng bao giờ giúp người ta cầm chai nước hay vật gì khác, cho dù đó là người già hay phụ nữ mang thai. Bởi BẠN CÓ THỂ BỊ BẮT vì sở hữu ma túy hoặc thuốc cấm. Ở Singapore hay Dubai, điều này có nghĩa bạn sẽ đối mặt với nguy cơ bị TỬ HÌNH.

HÃY NÓI VỚI NGƯỜI MUỐN BẠN CẦM GIÙM RẰNG: BỎ NÓ XUỐNG SÀN HAY CHỖ NÀO ĐÓ. ĐỪNG CÓ CẦM GIÙM.

Xem đoạn clip sau (do Hải quan Mỹ cung cấp) để hiểu thêm vì sao chai nước lại nguy hiểm đến thế. (Những kẻ buôn thuốc phiện quả thực rất cao tay)!

 

Nhãn:

Trò chuyện với tác giả tiểu thuyết: “Thời của thánh thần“

Trò chuyện với tác giả tiểu thuyết: “Thời của thánh thần“ 

 Minh và  nhà văn Hoàng Minh Tường           Minh Tường là nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết viết về nông thôn được đông đảo bạn đọc mến mộ như Thủy hỏa đạo tặc ( Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1997), Đồng sau bão, Thời của Thánh thần …Đặc biệt, tiểu thuyết Thời của Thánh thần hơn một năm nay đã trở thành cuốn sách Việt Nam bán chạy nhất, được nhiều người tìm đọc nhất. Đầu tháng 7-2009 vừa qua, anh quyết định “thưởng” cho đứa con trai út của mình vừa thi đậu vào lớp 10 một chuyến du lịch Huế. Theo anh, Huế và Nha Trang là hai thành phố du lịch đẹp nhất , đáng đi thăm nhất ở miền Trung. Đã đi du lịch thì nên đến Huế vì Huế là trầm tích văn hóa nhiều tầng . Vô Huế, Hoàng Minh Tường thuê khách sạn, rồi mượn xe máy của nhà văn Nguyễn Quang Hà chở con đi  thăm lăng tẩm, chùa chiền Huế, về  tắm biển Thuận An, về  chợ quê Cầu ngói Thanh Toàn , đi thăm bạn bè văn chương  và thưởng thức những món ăn nổi tiếng Huế… Mấy ngày nắng nôi nóng bức thế mà bố con nhà văn cứ đi trên đường ngày hai buổi…Tôi phải tin nhắn, điện thoại mấy lần mới có dịp ngồi với anh vài tiếng đồng hồ ở Khách sạn Bến Ngự trò chuyện về chuyện hậu Thời của  Thánh thần (TCTT)


           – Chào anh Hoàng Minh Tường , Ngô Minh và nhiều người đọc ở  các “tỉnh lẻ” Huế và miền Trung một năm qua chỉ đọc TCTT qua Vietnam thuquan, thấy  cuốn tiểu thuyết rất hấp dẫn và rất nhân văn , nhưng lại  nghe lõm bõm rằng “nó” bị ” thu hồi”, bị phạt, sau đó lại được tha, được phát hành cho toàn dân đọc. Đã hơn năm rồi, mọi chuyện  chắc cũng đã  nguội rồi, đã công khai được rồi. Vậy xin anh cho biết cụ thể bị “thu hồi” như thế nào ?

           – Nhà văn Hoàng Minh Tường ( HMT) ( cười đỏ mặt): – Đúng là có lệnh ngưng phát hành của Bộ Văn hóa Truyền thông thật.  Tiểu thuyết TCTT  đứng tên Nhà xuất bản Hội Nhà văn, nhưng sau khi có  giấy phép thì do một tổ chức làm sách bỏ tiền ra in . Giữa tháng 8-2008, khi tôi đang cùng bạn bè đi tham gia cứu trợ lũ lụt ở Bát Sát, Lao Cai  thì nhà văn Nguyễn Khắc Trường, người chịu trách nhiệm bản thảo điện thoại : ” Ông về  Hà Nội gấp để xử lý sự cố, Bộ Văn hóa Truyền thông có lệnh ngưng phát hành  TCTT rồi ! Gay lắm.”.  – Tôi trả lời ông NK Trường : ” Nhưng mà sách đã phát hành hết rồi, bây giờ ” Bộ 4T”( tức Bộ Văn hóa Truyền thông mà anh em văn nghệ gọi vui là “Bộ 4T” ) ngưng thì biết làm thế nào? Sách có phạm tội gì không  ông ?”. Hỏi ra mới biết, Bộ 4T có công văn cho ngưng phát hành TCTT vì phát hành 2 ngày trước thời hạn nộp lưu chiểu . Theo luật định, sau khi nộp lưu chiểu 10 ngày mới được phát hành, đây mới 8 ngày đã bán lẻ rồi. Tôi về Hà Nội  thì thấy sách đã bán gần hết . Tôi cùng  anh em nhà xuất bản Hội Nhà văn đi hết các hiệu sách “thu hồi” được 87 cuốn. Sau đó một Hội đồng thẩm định của Hội Nhà văn được thành lập.  Các thành viên Hội đồng cho rằng tiểu thuyết TCTT  nói chung là tốt, không phạm vào “các điều cấm” , nhưng cũng còn có một số khiếm khuyết như phản ảnh  hơi thái  quá một số  vấn đề  “nhạy cảm”, có  biểu hiện về “sex”…Cuối cùng Hội đồng bỏ phiếu nhất trí cho phát hành bình thường, rồi Cục xuất bản phạt 5 triệu đồng do vi phạm quy chế phát hành   Tôi và ông Nguyễn Khắc Trường  thở phào nhẹ nhõm. Thế là đã tai qua nạn khỏi, sách được đến tay bạn đọc đông đảo . Nhưng cũng có người bảo, phạt “vi cảnh” 5 triệu chỉ là  cái cớ thôi, thật ra là do nội dung “quá nóng”, các nhà quản lý muốn “cảnh cáo” và không muốn báo chí, truyền thông nhắc đến cuốn tiểu thuyết này…

             – TCTT là tác phẩm rất trung thực và nhân hậu và rất hấp dẫn, nhà văn đã dồn hết sức lực mình  để viết.  Dù bị “phạt thẻ vàng”, bị cảnh cáo, nhưng đó cũng đã biểu hiện của sự cởi mở hơn,”thoáng hơn” trong việc phán xét và thẩm định tác phẩm văn học của các cơ quản lý của Đảng và nhà nước ta ? Sau tiểu thuyết TCTT nhất định sẽ có những cuốn sách viết về những “vùng cấm bay” của cuộc sống sâu hơn, mạnh bạo hơn và hấp dẫn hơn.  Anh có tin như vậy không ?

              – Tôi tin như vậy. Vì các nhà văn chân chính trong hoàn cảnh nào cũng viết những cái mà cuộc sống bức xúc, đòi hỏi. Xã hội càng cởi mở thì văn chương càng hay. Nên trong các Đại hội Nhà văn Việt Nam, các nhà văn hay nói về  tự do sáng tạo là vì thế.  Tôi tin văn học Việt Nam sẽ đến lúc sáng tác, in ấn bình thường như các nước. Gần ý thức hệ với ta nhất, như Trung Quốc chẳng hạn. Tôi dã từng phát biểu trong một cuộc hội thảo về tiểu thuyết ở Đại Lải rằng: Điện ảnh và văn học Trung Quốc gần đây có những tác phẩm lớn ngang tầm thế giới vì quan niệm về sang tác của họ thực sự cởi mở. Vì thế họ mới có được Mạc Ngôn, Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng… Nếu Mạc Ngôn được xếp vào hạng tài ba, thì Các Nhà xuất bản Trung Quốc tài bẩy và Ban Tư tưởng Văn hóa Trung Quốc tài mười (!) Về cái sự tài này, theo tôi,  Nhà xuất bản Hội Nhà văn vừa qua cũng xứng lắm. Có như thế văn học của chúng ta mới mong có những tác phẩm được nhân dân trông đợi. Tiểu thuyết của tôi thường hay mang tính phản biện, tính luận đề …. Tôi không thích viết những cuốn sách kể chuyện bình thường, đơn điệu, vì cuộc sống vốn rất  phức tạp. Tôi luôn cố gắng để văn chương mình thực sự có ích , nhận được sự đồng cảm của đông đảo bạn đọc. TCTT có thể coi là một cố gắng mới của tôi. Tôi đã huy động tất cả vốn sống,  kiến thức hiểu biết của mình và vật vã trong 4 năm trời để phản ảnh hiện thực đất nước một chặng đường dài sau 1954 đến nay , không ngại khai thác những vùng được coi là nhạy cảm. Nên đối với tôi đây là đứa con tâm huyết.Có người đánh giá  đây là tác phẩm ” của một đời cầm bút…”, “tác phẩm tổng kết đời văn của tôi” có lẽ cũng không quá. Tiểu thuyết TCTT được phát hành bình thường đến đông đảo bạn đọc  làm cho tôi thật sự xúc động và tin tưởng. Tôi cám ơn Nhà xuất bản Hội Nhà văn , cám ơn các  cơ quan quản lý  văn hóa đã có cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn trên tinh thần  cởi mở để cho cuốn sách được sống đời sống của nó trong  xã hội. 

       – Tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc của anh được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1997,TCTT ra đời sau hơn 10 năm, gây xôn xao dư luận, tất nhiên con đẻ ra thì đứa nào mình cũng  yêu, cũng quý, nhưng trong  hai cuốn tiểu thuyết đó, anh tâm đắc với cuốn  nào hơn ?

        –  Trong  30 năm qua, từ năm 1979 đến nay tôi đã xuất bản 12 cuốn tiểu thuyết và 9 tập truyện ngắn, nhưng phải nói Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão và Thời của Thánh thần  là những  cuốn tâm đắc nhất. Thực ra Thủy hỏa đạo tặc là cuốn đầu trong bộ tiểu thuyết Gia phả của đất gồm 2 cuốn : Thủy hỏa đạo tặc ( 1996) và Đồng sau bão (2000).Thủy hỏa đạo tặc tôi viết về nông thôn đồng bằng Bắc Bộ  đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Đó là giai đoạn khốn khó nhất của bà con nông dân, phải khoán chui lén lút, cuộc sống vô cùng quẩn bách. Tôi viết xong tiểu thuyết này năm 1982. Lúc đầu lấy tên là Vùng gió quẩn. Đưa bản thảo đi hết nhà xuất bản này đến nhà xuất bản khác, anh biên tập viên nào đọc cũng  “rất thích, rất hay”, nhưng không “nhà” nào dám in. Mãi đến năm 1996 mới in được. Đó là cuốn tiểu thuyết cũng “rất nóng”, bám rất sát hiện thực đời sống nông thôn, có  tính phản biện mạnh mẽ. Đó là thời của bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc ở Vĩnh Phú. Tiểu thuyết này mà in ra lúc đó thì tác giả cũng nguy. Ông Kim Ngọc , một  bí thư tỉnh ủy mà còn bị  khép tội “chống đường lối” bị đày đến khốn khổ, nhà văn như tôi là cái thá gì ! Nhưng in vào năm 1996 , lúc đó tình hình nông thôn nước ta đã được “tháo khoán”, tiểu thuyết lại được đánh giá là xuất  sắc, được giải thưởng Hội nhà văn. Nhưng tôi nghĩ nếu nó được in ra trong năm 1982 thì tác dụng xã hội của nó sẽ lớn hơn nhiều . Cuộc đời thật  trớ trêu: Thứ được coi là  “thuốc độc” thời này lại là “thuốc bổ” thời khác. Bởi thế mà tôi thường nghĩ : Văn chương là một nghề bạc bẽo và khổ ải…

           Còn TCTT có thời gian phản ảnh dài hơn, không gian rộng hơn  và tính chất phản biện xã hội cũng quyết liệt hơn . Một nhà văn đã đúc kết rất cô động trên mạng : ” Thời của Thánh Thần” viết về những số phận khác nhau của một gia đình có truyền thống khoa bảng ở làng quê châu thổ sông Hồng. Bốn anh em trai Khôi, Vĩ, Vọng, Quặc ba người con đẻ, một con nuôi, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, mỗi người đi mỗi ngả. Có người trở thành cán bộ lãnh đạo; có người là nhà thơ nhưng bị quy là theo nhóm Nhân văn, xét lại; có người di cư vào Nam rồi di tản sang Mĩ; có người ở nhà cày ruộng. Cùng với họ là những người đàn bà, những người vợ, những mối tình sét đánh, éo le, ngang trái…Ba thế hệ của một gia đình, từ ông Lí Phúc, đến bốn người con trai của ông, rồi đến những đứa cháu của ông đã vật vã trên nửa thế kỉ của đất nước trong cơn gió bụi và cuộc bể dâu.  Cải cách ruộng đất; Đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, chống Xét lại; Giải phóng miền Nam, thống nhất Đất nước; Hoà hợp dân tộc…những vấn đề cốt lõi ấy, được xem xét và đánh giá qua những số phận mấy đời chìm nổi của một gia đình.   Đòn xoáy khốc liệt suốt hai cuộc chiến tranh đã cuốn họ đi, nhào nặn nên tính cách và số phận của họ…”.

                Đối với tôi mỗi cuốn tiểu thuyết có một nhiệm vụ. Thủy hỏa đạo tặc hay Thời của Thánh thần đã  làm  xong nhiệm vụ của nó.Tôi thấy mình đã làm trọn bổn phận người cầm bút.    

          – Nghe nói TCTT lúc đầu tên khác, sau đó anh đổi lại. Cuốn sách “nóng thế”, anh có gặp khó khăn gì khi đưa bản thảo cho nhà xuất bản không ? Tôi quý những bà đỡ cho cuốn tiểu thuyết ra đời như Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh , họ có khó khăn gì  khi biên tập xuất bản và sau khi xuất bản cuốn sách ?    

           –  Đúng là cuốn tiểu thuyết TCTT lúc đầu tôi đặt tên là “Tốt sang sông“. Vì trong cờ tướng, tốt sang sông  sẽ trở thành một quân cờ nguy hiểm, nó có thể  làm được mọi việc theo ý mình . Con Tốt mà sang sông, tức là đứa tiểu nhân lúc đã đắc thế. Đây là câu của Nguyễn Tuân trong ” Vang bong một thời”…Cái ý “tốt sang sông” là  ý trong một câu thơ của cố nhà thơ Trịnh Thanh Sơn.  Khi tôi đưa bản thảo lần cuối cho nhà văn Nguyễn Khắc Trường, tác giả Mảnh đất lắm người nhiều ma, Tổng biên tập NXB Hội Nhà văn, người sẽ ký “giấy thông hành” cho cuốn tiểu thuyết vào đời, là người đọc đầu tiên. Anh đọc xong  chẳng nói năng gì về chất lượng nội dung cả. Nhưng lại bảo: “Phải cân nhắc lại cái tên sách, có một cuốn sách của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh in ở Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, với tựa đề Khi con tốt sang sông”. Truyện của ông lẽ ra phải đặt là “Những người khốn khổ”, hoặc “Con đường đau khổ”. Tiếc là các cụ Vichto Huygô và Alếcxan Tôlxtôi đã đặt mất rồi…”. Tôi mừng vì như thế là Nguyễn Khắc Trường đã đồng ý  về nội dung, chỉ băn khoăn tên sách. Tôi đọc lại bản thảo, chợt phát hiện ra rằng, mình nên lấy tên tập thơ đầu tay của nhân vật Nguyễn Kỳ Vỹ đặt cho cuốn tiểu thuyết  là  tốt hơn cả. Thế là cái tên THỜI CỦA THÁNH THẦN được khai sinh.

           Tôi cho rằng, Nhà xuất bản Hội Nhà văn có đội ngũ biên tập đáng tin cậy. Tôi rất kính trọng  họ. Họ hiểu nghề nghiệp và hiểu người viết muốn nói gì. Tôi  biết  ơn Trung Trung Đỉnh- Nguyễn Khắc Trường- Tạ Duy Anh- ba nhà văn là bộ ba tâm huyết và dũng cảm. Nếu không có họ thì cuốn sách không ra đời được.  Họ đã chịu đựng nhiều phiền toái, áp lực, nhưng họ đã làm được việc có ích cho nhà văn, cho đời. Giá mà Nhà xuất bản nào cũng có những biên tập viên trình độ và bản lĩnh như thế !

          – Người ta đồn rằng, trong TCTT các nhân vật đều “ám chỉ” người này người khác, rồi nói tới một  dòng “văn học ám chỉ”. Vậy ,anh có thể tiết lộ các nhân vật của anh trong TCTT  như Tư Vuông, Kỳ Vỹ, Kỳ Vọng,  Kỳ Quặc,  Chiến Thống Nhất,   Đào Thị Cam, Châu Hà… “ám chỉ” ai trong  cuộc sống xã hội một thời mà tiểu thuyết phản ảnh ?

           – Đây không phải là tiểu thuyết viễn tưởng. Không phải tiểu thuyết lịch sử, mà đây là văn học đương đại. Nghĩa là lấy hiện thực đất nước làm cảm hứng xuyên suốt. Nhà văn thì bao giờ  cũng phải có bột mới gột nên hồ. Nhưng viết sự thật  một trăm phầm trăm thì lại là ký mất rồi. Tiểu thuyết là hư cấu. Nên hình tượng  nhân vật tốt – xấu, ác-hiền trong tác phẩm  giống nhiều người  hay không là do khả năng hư cấu , xây dựng hình tượng khái quát của tác giả. Đọc sách thấy cá tính, lời nói, nhân cách, đạo đức nhân vật này giống người này, người khác nhưng thực ra không giống ai cả. Nên cái gọi là “văn học ám chỉ” không thuộc phạm trù  tiểu thuyết, đó chỉ là  từ ngữ của các nhà phê bình thực dụng và cơ hội “sáng tạo” ra mà thôi.

          – Ở Huế đa số bạn đọc phải đọc TCTT trên mạng, vì không mua được sách. Nhưng nghe nói sách được xuất bản  với ti-ra lớn, bán chạy lắm, lại thêm các nậu “luộc” đi “luộc” lại. Anh có thể cho biết vài chuyện về việc đó không ?

          –  Sách in 1000 cuốn bán hết vèo ngày trong  tháng đầu phát hành. Có người như nhà thơ Hoàng Cát nghèo thế, sách  đắt thế mà  mua tới 12 cuốn sách để tặng bạn bè.Rồi  nhiều bạn bè tôi ở Hà Nội mua hàng chục cuốn gửi làm quà cho bạn bè, người thân… Cuốn mình tặng Ngô Minh  là cuốn sách bị in lậu đấy. Chỉ còn một cuốn mà bạn bè Huế thì đông.  Sách gốc bìa gấp, có  chân dung mình do họa sĩ Lê Lam ký họa, có phần lạc khoản về tác giả, tác phẩm và giải thưởng, rất trang trọng .   Để có nhiều lời, bọn nậu sách đã bỏ cái bìa gấp đi , mất đẹp, mất sang đi, chắc là “để tiết kiệm” tiền in. Nghĩa là in lậu đã đến mức công khai , nên chẳng cần  luộc giống làm gì cho tốn kém. Cứ như là nước  ta không có  cơ quan quản lý xuất bản sách vậy ! Nghĩa là chúng không biết sợ nữa. Hay là chúng được ai đó bảo kê ? Mà chẳng cần bìa gấp giới thiệu cũng bán vèo vèo. Ở Hà Nội sách lậu này bán đầy  các phố như phố Nguyễn Xí, Đinh Lễ, Trần Quốc Hoàn…. Những người làm xuất bản sách ước tính có tới 5 vạn cuốn sách Thời của Thánh thần bị luộc tung ra thị trường trong năm qua. Đa số người đọc đều  đọc sách in lậu. Kỳ lạ hơn,  sách vừa phát hành tại Hà Nội trung tuần tháng 8 năm 2008, mà chỉ một tháng sau, ngày 23 tháng 9 năm 2008, đã được post lên mạng của trang web Vietnamthưquan. Trong thư ngỏ gửi Vietnamthuquan, tôi  phản đối : “Họ lược mất hai câu đề từ: “Dáng Việt, lưng còng Mẹ/ xót xa muôn kiếp Lạc Hồng“. Thiếu cả hai câu thơ Đoàn Thị Điểm – Đặng Trần Côn đề từ cho Phần I “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi / Khách má hồng  nhiều nỗi truân chuyên”.  Đó là chưa kể rải rác suốt 29 chương, đầy rẫy những chữ vi tính sai và lỗi chính tả….Chính vì thế mà niềm vui của tác giả khi thấy đứa con tinh thần của mình được vinh hạnh vào trang web của Vietnamthuquan, chưa kịp hé lộ, đã như bị dội gáo nước lạnh, như thấy mình bị tổn thương…Chẳng lẽ Vietnamthuquan và những người in giả tiểu thuyết “Thời của Thánh Thần” đang bán tràn lan khắp Hà Nội và các tỉnh thành, cũng chỉ là một?  Trên mạng Vietnamthuquan, và các trang mạng khác số người truy cập một năm qua tới nửa triệu lượt. Đó là chưa  kể số bạn đọc lấy sách trên mạng về rồi  in ra, truyền tay nhau đọc cũng  không nhỏ. Như vậy, tính cả số lượng người đọc sách Thời của thành thần trên VNthuquan  nữa thì số sách TCTT lưu hành trong xã hội vượt số lượng sách Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành tới  cả trăm lần ! Những kẻ in sách giả vi phạm luật bản quyền, không nộp thuế cho Nhà nước, không trả nhuận bút cho tác giả, quản lý phí cho Nhà xuất bản. Bây giờ mình phải mua sách của mình  bị  in lậu để tặng bạn bè.  Thế mới đau !

Một trang sách THỜI CỦA THÁNH THẦN in lậu bị sai rất nhiều lỗi chính tả.Có khi mất cả dòng.

          
            –  Thế theo nhà văn, có cách gì để  ngăn chặn bọn in lậu ?

            –  Theo tôi, nếu sách không phạm vào các điều cấm, độc giả có nhu cầu cao, thì cơ quan quản lý nên cho Nhà xuất bản tái bản bán thoải mái . Đó là cách chống sách  in lậu hiệu quả nhất…Tôi cũng đã có văn bản gửi Trung tâm Bản quyền tác giả văn học VN để nhờ bảo vệ. Và tất nhiên, nhiều lần đề nghị NXB Hội nhà văn cho tái bản. Nhưng ông giám đốc cười ruồi, như muốn thở hắt ra : Bác ngây thơ thế. Bác ngây thơ thế ?

            – Xin cám ơn nhà văn vì cuộc trò chuyện thú vị…

 


Huế, tháng 7.2009

 

Nhãn: , , ,

Nguy cơ từ sự hồn nhiên của người dùng Facebook

Nguy cơ từ sự hồn nhiên của người dùng Facebook

 FB-jpg-1357899857_500x0.jpg

Nhiều người đang vô tư khoe thông tin cá nhân như ảnh, địa chỉ nhà, tài sản có giá trị và cả những kế hoạch đi chơi lên mạng xã hội mà không để ý đến các nguy cơ rình rập.

 

Cuối năm 2012, cộng đồng mạng lan truyền video về một “thầy phù thủy” có khả năng “siêu phàm”. Chỉ cần biết tên người ngồi đối diện, ông thầy có thể nói chính xác nhiều thông tin nhạy cảm và riêng tư mà tưởng chừng như chỉ người đó mới biết, như số tiền mà cô gái đã bỏ ra để mua áo tháng trước đó, vị trí hình xăm trên người, thậm chí biết cô từng có 3-4 bạn trai… Tuy nhiên, thực ra ông không hề có năng lực bí ẩn mà hậu thuẫn ông là một đội “chuyên gia bàn phím”. Họ chỉ cần nhập tên và tra cứu qua Google hay Facebook là đủ để xây dựng một hồ sơ khá hoàn chỉnh về người xa lạ. Nói cách khác, một kẻ với âm mưu xấu nào đó cũng có thể thu thập những điều tương tự như thế chỉ bằng việc lần mò thông tin và giả vờ kết bạn trên Facebook.

 

Video về thầy phù thủy online

 

Tuy nhiên, suy nghĩ chung của không ít người là những lời cảnh báo ấy không dành cho mình, sẽ không xảy ra với mình hoặc đó là chuyện “lo bò trắng răng”, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.

 

Hàng ngày trên Facebook và Foursquare, các thành viên vẫn khoe chuyện vừa sắm xe, điện thoại, dàn loa mới, “check-in” địa điểm mỗi khi về nhà, đến công ty hay đăng ảnh cả nhà đang đi du lịch… Đây là những chia sẻ hoàn toàn bình thường giữa bạn bè và người thân với nhau. Tuy nhiên, trên Facebook của mỗi người không chỉ có bạn bè ngoài đời mà còn có cả những “bạn” họ chưa từng gặp và thậm chí chưa một lần trò chuyện qua Facebook.

 

Nếu có âm mưu từ trước (hoặc bỗng dưng nổi lòng tham khi nhìn thấy tài sản giá trị), kẻ xấu sẽ không khó tập hợp thông tin về thành viên Facebook đó như họ sống một mình hay với ai, đi làm vào thời gian nào, ở đâu… và lên kế hoạch đột nhập khi chủ nhân khoe trên mạng là đang không ở nhà (đi công tác, đi chơi, đi ăn ở ngoài).

 

Có người vô tư đăng ảnh, tên, lớp, trường, thời gian biểu của con và cả tên và số điện thoại của cô giáo lên mạng mà không nghĩ đến chuyện có thể gây hại cho con (như tội phạm có thể đưa ra các thông tin trên và vờ làm người nhà của trẻ).

Ngay cả trong giới nghệ sĩ, nhiều “sao” cũng được khuyến cáo không nên tường thuật trực tiếp lên Fan Page về chuyện họ đang phải đi về muộn hay đang tham dự tiệc ở đâu đó. Lời nhắc nhở này xuất phát từ việc một số “hot girl” thi thoảng vẫn chụp ảnh “tự sướng” rồi cập nhật Facebook tức thì, hoặc than thở “giờ này vẫn còn chưa về đến nhà”… Kẻ cướp có thể kết bạn với các nghệ sĩ để chọn lọc, truy tìm “mồi ngon” đang mang trên mình trang sức, phụ kiện đắt tiền sau khi rời sàn diễn.

 

Tuy nhiên, tình trạng lợi dụng sơ hở của thành viên mạng xã hội để tấn công ngoài đời có thể ít xảy ra hoặc ít người nghe nói đến trường hợp cụ thể nào ở Việt Nam nên đa số vẫn rất chủ quan. Trong khi đó, mối nguy hại này đã được nhiều nước cảnh báo. Tổ chức phòng chống tội phạm quốc gia Ai-len cho hay số vụ trộm cướp năm 2012 ở nước này tăng lên so với năm trước có một phần liên quan đến mạng xã hội và nhắc nhở người dùng Internet cần cẩn trọng mỗi khi chấp nhận kết bạn với người lạ và khi đưa thông tin mang tính cá nhân, riêng tư lên mạng.

 

Một chia sẻ rất bình thường và phổ biến trên Facebook, nhưng có thể lại là thông tin quý với kẻ có ý đồ xấu.

Báo Telegraph cũng từng đăng khảo sát được thực hiện với một nhóm tội phạm (đã bị bắt) ở Anh và kết quả là 79% những tên trộm được hỏi khẳng định đã dùng mạng xã hội làm công cụ “săn mồi”. Chúng cũng lấy đi tài sản có giá trị trung bình 600 USD từ mỗi ngôi nhà viếng thăm. “Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên số với tội phạm số – những kẻ đang khai thác sự kết nối và chia sẻ trên mạng xã hội để tiếp cận nạn nhân tiềm năng. Mọi người đang ‘mời giặc về nhà’ mà không hề hay biết”, tờ báo này khẳng định.

 

Giữa năm ngoái, báo chí Australia đưa tin một một cô gái 17 tuổi ở Sydney đã nổi hứng chụp ảnh đăng Facebook khi đang giúp bà đếm tiền tiết kiệm. Ngay đêm đó (29/5/2012), hai tên cướp cầm vũ khí đã xông vào nhà của nạn nhân và tra hỏi về số tiền chúng thấy trong ảnh. Các nhà chức trách địa phương sau đó đã phải đưa ra cảnh báo về nguy cơ tiềm ẩn khi đăng tải thông tin gia đình và bản thân lên mạng, đồng thời đề xuất các nguyên tắc sử dụng căn bản cho người dùng như không công khai các thông tin cá nhân, không đồng ý kết bạn với người lạ, không cập nhật nhiều về các hoạt động cá nhân hàng ngày… để tránh bị theo dõi.

 

“Trước khi sự cố xuất hiện, không ai lại nghĩ rằng chuyện đó sẽ xảy ra với mình. An toàn là trên hết, hãy ghi nhớ điều đó mỗi khi vào một trang mạng xã hội. Bạn chỉ nên chia sẻ những thứ mà bạn có thể đảm bảo là sẽ không làm ảnh hưởng đến cuộc sống về sau”, trang Howstuffworks khuyên.

 

Châu An

(Nguồn vnexpress)

 

Nhãn: ,

Phạm Duy “còn đó…muôn đời”

Phạm Duy “còn đó…muôn đời” 

(Ảnh: Phạm Duy)

 

 

“Thơ hay có thể bị vua bắt

Trăng nhé nghìn đêm bạc tiếng gà”

( Trích bài thơ “LÝ BẠCH” của Trần Mạnh Hảo)

Chúng tôi (TMH) xin mượn tên cuốn sách : “Phạm Duy còn đó nỗi buồn” của họa sĩ, nhà văn Tạ Tỵ làm tiêu đề cho bài viết về nhạc sĩ Phạm Duy của mình.

Phạm Duy –  (từng là ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng nhất của nền tân nhạc Việt Nam, từng là giáo sư dạy trường Quốc gia âm nhạc Sài Gòn, một nhà nghiên cứu âm nhạc xuất sắc, một nhà văn, nhà báo có phong cách riêng khi viết báo, viết hồi ký )- kể từ bài hát đầu tiên phổ thơ Nguyễn Bính, bài “ Cô hái mơ” viết năm 1942 đến nay, đã có hàng mấy trăm bài hát ( có người còn cho ông đã viết đến con số trên dưới 1000 bài ?) làm xúc động lòng người Việt Nam suốt hơn 70 năm nay. Phạm Duy không chỉ là một hiện tượng âm nhạc vắt qua hai thế kỷ; hơn nữa, ông còn là một hiện tượng xã hội, một hiện tượng văn hóa, một hiện tượng lịch sử, cần phải có nhiều nhà Phạm Duy học mai sau nghiên cứu về ông.

Thuở nhỏ, thời kháng chiến chống Pháp, kẻ viết bài này từng nghe bà mẹ mình – một người hát thánh ca trong ban Ca vịnh nhà thờ- từng dùng nhạc Phạm Duy ru con. Những lời ca, giai điệu Phạm Duy đã thấm vào hồn tôi từ thơ bé qua tiếng hát ru của mẹ như bài “Nương chiều”  :

“ Chiều ơi, lúc chiều về rợp bóng nương khoai, trâu bò về giục mõ xa xôi, ơi chiều…Chiều ơi, áo chàm về quảy lúa trên vai, in hình vào sườn núi chơi với, ới chiều…”

Bài “ Nhạc tuổi xanh” :

…”Rừng ta ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây, ruộng ta ta cứ cày…Diệt xong quân Pháp kia cười vang ta hát câu tự do…”

Thỉnh thoảng, khi buồn vui, mẹ tôi lại khe khẽ hát mấy bài Phạm Duy viết trong kháng chiến chống Pháp, ví như : “Cây đàn bỏ quên”, “Khối tình Trương Chi”, “Bên cầu biên giới”, “Tiếng đàn tôi”, “ Mười hai lời ru”…

Những bài hát của Phạm Duy, của Văn Cao ( trước 1945) của mẹ tôi được chép trên giấy học trò; có khi là những bản chép nguyên cả khuôn nhạc in bột trên giấy bản nhầu nát; có khi, bố tôi ( một người hát nhạc nhà thờ trong ban Ca vịnh biết chơi đàn và biết xướng âm bản nhạc) phải dùng hộp bao diêm làm dụng cụ kẻ nhạc, đặng chép lại bản nhạc cho rõ ràng giúp mẹ tôi)…

Cải cách ruộng đất, gia đình tôi bị quy lên địa chủ, các bản nhạc chép tay kia của Phạm Duy, Văn Cao… đều bị mất. Nhưng mẹ tôi thi thoảng buồn, lại ngồi một mình khe khẽ hát nhạc Phạm Duy, Văn Cao, Đỗ Nhuận… Những bản nhạc tuyệt vời của Phạm Duy, Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Yên, Văn Chung, Doãn Mẫn, Canh Thân, Đoàn Chuẩn, Việt Lang, Hoàng Qúy, Tô Vũ, Hoàng Giác…bị quy là nhạc vàng, nhạc phản động, đồi trụy, bị cấm.

Tôi thường sang nhà người bà con hàng xóm, cùng với ông em họ ( lớn tuổi hơn tôi) tên là chú Bá, ghé tai vào cái radio hiệu Siêng Mao nghe đài Sài Gòn phát nhạc vàng thời tiền chiến, mặt lấm la lấm lét như hai tên ăn trộm…Một hôm chú Bá vừa đi đường vừa nghêu ngao bài “ Nhớ Chiến khu” của Đỗ Nhuận ( thực ra bài này chính là bài nhạc cách mạng, nhưng âm giai buồn buồn da diết giọng nhạc vàng của “Suối mơ”, “ Bến Xuân”…) nên Bá bị công an xã bắt, quy lên hát nhạc vàng của bọn Mỹ Diệm phát ra từ cái radio phản động…Chiếc radio Siêng Mao của Bá bị công an xã tịch thu…

Từ đó, suốt tuổi thơ, tôi không còn được nghe những giai điệu tiền chiến bất hủ kia nữa. Cho mãi tới sau này, khi ở trong rừng miền Nam, trở thành một nhà báo và mua được cái radio bé tí, tôi lại tiếp tục được nghe ( lén)  nhạc Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Phạm Đình Chương, Cung Tiến…dưới hầm hào bom đạn…

Ngày 30/4/1975, từ rừng Lộc Ninh về Sài Gòn, chưa kịp hoàn hồn, tôi đã bị Sài Gòn đánh chiếm bằng văn hóa, bằng văn học, bằng sách vở, âm nhạc. Phạm Duy và Trịnh Công Sơn đã tái chiếm tâm hồn tôi; và hình như tôi, đã tự nguyện quy hàng thứ âm nhạc, thứ văn học, văn hóa mà chế độ mới đang kết án, cho là văn hóa phản động, đồi trụy. Các loại sách dịch gần như vô tận của Sài Gòn còn sót lại sau đại họa đốt sách của chế độ mới đã xâm lược đầu óc tôi, giải phóng tôi thoát khỏi ngục tù của dốt nát, của u mê, của cuồng tín ngớ ngẩn một thời, “bắt” tôi vào trường tự nguyện “học tập cải tạo” đến giờ chưa chịu thả ra…

May mắn thay, đầu tháng 5/1975, anh Trịnh Công Sơn đã cho tôi và Trần Nhật Thu mượn cái máy nghe nhạc cũ kỹ mà anh không còn dùng tới. Suốt mấy tháng trời, các kiệt tác âm nhạc của bên thua trận như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, các bài hát tuyệt vời của Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Văn Phụng, Hoàng Trọng, Phạm Thế Mỹ, Tuấn Khanh, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Trần Thiện Thanh, Y Vân, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Lê Uyên Phương, Trần Trịnh, Phạm Mạnh Cương, Trường Sa, Anh Bằng, Khánh Băng, Nguyễn Ánh 9, Nguyễn Trung Cang, Lê Trọng Nguyễn, Hoàng Nguyên, Văn Giảng, Đan Thọ, Vũ Đức Sao Biển, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Đức Quang…qua tiếng hát của các danh ca : Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Hà Thanh, Thanh Lan, Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Khoa,  Elvis Phương… đã bắt sống tâm hồn tôi làm tù binh, cùng với thơ Nguyên Sa, thơ Nhã Ca, văn Võ Phiến, Mai Thảo, Phan Nhật Nam, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam…nhốt thế giới tinh thần tôi vào trang sách, vào khuôn nhạc khóa sol năm dòng kẻ của họ và “lưu đày”  tâm hồn tôi lại mãi với những bài ca đích thực con người…

Tôi yêu các nhạc sĩ có một bài hát bất hủ để đời, ví như : “Xuân và tuổi trẻ” ( La Hối phổ thơ Thế Lữ), “Cô láng giềng” của Hoàng Qúy, “ Em đến thăm anh một chiều mưa” của Tô Vũ, “ Biệt ly” của Doãn Mẫn, “Giáo đường im bóng” của Nguyễn Thiện Tơ, “Hướng về Hà Nội” của Hoàng Dương, “Nắng chiều” của Lê Trọng Nguyễn, “Ai lên xứ hoa đào” của Hoàng Nguyên, “ Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng Hoàng, “Chiều tím” của Đan Thọ, “ Ai về sông Tương” của Văn Giảng, “Thu ca” của Phạm Mạnh Cương, “Sang ngang” của Đỗ Lễ, “Thương nhau ngày mưa” của Nguyễn Trung Cang, “Thu hát cho người” của Vũ Đức Sao Biển, “ Tôi đưa em sang sông” của Nhật Ngân và Y Vũ…

Huống hồ, với thiên tài Phạm Duy đã có hàng mấy chục bài hát bất hủ để đời, trong đó có đến vài chục bài thuộc hàng kiệt tác, thì tôi càng kính phục ông hơn, yêu mến ông biết là chừng nào. Chính vì vậy, ngay từ khi chưa biết chữ, nghe mẹ tôi hát nhạc Phạm Duy, đôi tai tôi đã bị ông này lấy mất, để rồi ông thả tâm hồn tôi suốt hơn sáu mươi năm nay lang thang cùng nỗi “khóc cười theo vận nước nổi trôi” của Phạm tiên sinh.

Chúng tôi xin phép kể ra các ca khúc tuyệt vời và rất hay của nhạc sĩ Phạm Duy mà cá nhân tôi yêu thích, đã góp phần làm thay đổi cuộc đời tôi :

“Nương chiều”, “ Tình ca”, Nhạc tuổi xanh, “ Bên cầu biên giới”, “Ngậm ngùi”, “Áo anh sứt chỉ đường tà”, Ngày trở về, Mùa thu chết, Thuyền viễn xứ, Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Bà mẹ quê, Cây đàn bỏ quên, Nghìn trùng xa cách, Việt nam Việt nam, Bên ni bên nớ, Còn chút gì để nhớ, Nha trang ngày về, Đưa em tìm động hoa vàng, Kỷ niệm, Ngày xưa Hoàng thị, Giọt mưa trên lá, Tình hoài hương, Tiếng đàn tôi, Đố ai, Tiếng sáo thiên thai, Nụ tầm xuân, Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà, Cành hoa trắng, Cô gái Bắc kỳ nho nhỏ, Thương tình ca, Thà như giọt mưa, Cỏ hồng, Người về, Đường em đi, Chuyện tình buồn, Nhớ người thương binh, Con đường tình ta đi, Ông trăng xuống chơi, Chiến sĩ vô danh, Tuổi ngọc, Phượng yêu, Còn gì nữa đâu, Thương ai nhớ ai, Gọi em là đóa hoa sầu, Em đi lễ chùa này, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Kiếp nào có yêu nhau, Yêu là chết ở trong lòng, Khối tình Trương Chi, Tóc mai sợi vắn sợi dài, Nước mắt mùa thu, Chiều về trên sông, Tôi đang mơ giấc mộng dài, Hẹn hò, Nước mắt rơi, Kỷ vật cho em, Tiễn em, Trả lại em yêu, Chủ nhật buồn, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Ta yêu em lầm lỡ, Giết người trong mộng, Bao giờ biết tương tư, Em hiền như Masoeur, Đừng nhìn nhau nữa em ơi, Nước non ngàn dặm ra đi, Ai đi trên dặm đường trường, Gió đưa cành trúc la đà, Con đường cái quan ….

Những kiệt tác ca, tuyệt tình ca trên gồm đủ thể loại ca nhạc như cách mạng ca, sơn hà ca, quê hương ca, tình ái ca, tâm tư ca, trường ca, rong ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca, tâm phẫn ca, tục ca, vỉa hè ca, thiên địa ca, vô thường ca, hư vô ca, nhật nguyệt ca, vũ trụ ca, sầu mộng ca, hoan lạc ca, Phật ca, Chúa ca, quỷ ca, Càn khôn ca, Ta bà ca, Lão Trang ca, Thần tiên ca, sinh diệt ca, liêu trai ca, mộ địa ca, hú hồn ca, yêu tinh ca, du mục ca, tang bồng ca, ma xó ca, ngật ngưỡng ca, túy lúy ca, siêu hình ca, vô ngôn ca…

Phạm Duy còn có đóng góp lớn là món NGOẠI CA, tức công việc chuyển ngữ cho các kiệt tác âm nhạc nước ngoài vào thị hiếu âm nhạc Việt Nam mà khi hát lên, nhiều người vẫn cho là ca khúc Phạm Duy…

Những tuyệt tác ngoại quốc được Phạm Duy chuyển ngữ và chỉnh sửa, phỏng lời, hoặc nắn lại nốt nhạc cho hợp tai người Việt Nam gồm : Ave Maria, Mối tình xa xưa, Dòng sông xanh, Khúc hát thanh xuân, Chiều tà, Dạ khúc, Trở về mái nhà xưa, Mơ màng, Ánh đèn màu, Vũ nữ thân gầy, Tình vui, Chuyện tình, Em đẹp nhất đêm nay, Cánh buồm xa xưa, Giàn thiên lý đã xa, Vai áo màu xanh, Hận tình trong mưa, Nắng thu, Bài ca ngợi tình yêu, Emmanuelle, Himalaya, Hờn ghen, Khi xưa ta bé, Không cần nói anh yêu, Khúc hát thanh xuân, Lại gần hôn em, Nắng xuân, Ngày tân hôn, Người yêu nếu ra đi, Biết ra sao ngày sau, Tình yêu ôi tình yêu, Vĩnh biệt người tình, Vĩnh biệt tình ta….

Thật không thể nào tin được, một ông Phạm Duy bằng xương bằng thịt lại có thể viết được ngần ấy bài tuyệt tình ca hay đến thế, mê hoặc hồn người Việt Nam đến thế. Có cảm giác chỉ một mình Phạm Duy đã là cả một thời đại tân nhạc Việt Nam. Có cảm giác trong người ông Phạm Duy còn giấu ẩn cả trăm nghìn người khác; hoặc trong thân xác ông còn giấu cả trăm nghìn bộ óc khác, trăm nghìn trái tim khác; trong hồn ông còn giấu trăm nghìn hồn khác; trong đôi tai ông còn giấu trăm nghìn đôi tai khác. Cho nên ông mới đủ sức làm ra một gia tài âm nhạc vô cùng đồ sộ, với một chất lượng không thể nào tưởng tượng ra được, rằng đây là sản phẩm của chỉ một con người ?

Khi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy bước vào tuổi 93 đang lâm trọng bệnh, tôi ngồi trong nhà, một mình tha thẩn ngoài sân nghe lại một cách hệ thống mấy chục album nhạc Phạm Duy trên Internet suốt cả nửa tháng trời mà lấy làm vô cùng thán phục ông. Hình như ông Phạm Duy chính là lò sản xuất ma xó vào loại lớn nhất thế giới ? Trong mỗi bài hát, chừng như Phạm Duy đều gài vào năm dòng kẻ nhạc khóa sol của ông một con ma xó, hầu hớp hồn người nghe ?

Tôi đồ rằng tâm hồn ông Phạm Duy có chứa một cái dạ dày ( tất nhiên là dạ dày tinh thần) to bằng cả bầu trời ? Quái kiệt giời sai xuống trần gian có tên là Phạm Duy có cái dạ dày tâm hồn biết tiêu hóa muôn muôn sự vật, từ sự vật thể chất đến sự vật tinh thần, rồi biến chúng thành giai điệu, thành lời ca. Không có cái gì chúng ta nhìn thấy, cảm thấy, mơ thấy, sờ thấy, ngửi thấy, nghe thấy, mơ thấy mà không có trong âm nhạc Phạm Duy. Từ góc sân nhà nơi ta lẫm chẫm tập đi, tập nhìn, tập nghe, tập khóc, tập cười, tập bú mớm, tập ăn, tập uống, tập làm người, thảy thảy đều có trong âm nhạc Phạm Duy.

Con sâu cái kiến, con giun, con dế, con chuồn chuồn, con chim, con cá, con kênh, con sông, con bê, con nghé, con mèo, con chó, con lợn , con gà, con voi, con vịt, con đom đóm, con người…đều hốt nhiên tìm đến năm dòng kẻ nhạc, năm đại lộ Phạm Duy mà leo, mà bò, đi lại, chạy, chảy, bay, bơi trong âm nhạc Phạm Duy…Cái cây, cái cối, cái chày, cái thằng con nít, cái nồi, cái niêu, cái chum, cái vại, cái nhà, cái xe, cái mâm, cái chết, cái sống, cái hư vô, cái thực tại, cái vô thường, cái hữu hạn, cái vô vi, cái sinh diệt, cái ác, cái thiện, cái tốt, cái xấu, cái sai, cái đúng, cái đẹp, cái thoáng chốc, cái muôn đời, cái đểu, cái chân, cái mê, cái tỉnh, cái giả, cái buồn, cái vui, cái bất tử, cái siêu hình, cái yoni ( cái l…) cái Linga ( cái c…), cái vợ, cái con, cái váy, cái khăn, cái nón, cái mồm, cái tay, cái chân, cái tóc, cái lông, cái dại, cái khôn, cái mùi, cái mát, cái tai, cái âm dương, cái phồn thực, cái mất, cái còn…đều được cái dạ dày âm nhạc khủng long của Phạm Duy tiêu hóa mà biến thành muôn vàn âm giai, muôn vàn làn điệu, muôn vàn lời ca ma ám, ám lấy hồn người ?

Phạm Duy, ông có phải là thượng đế của âm giai, phù thủy của khóa sol, ma xó của bảy thanh âm : đồ rê mi pha sol la xi, thần linh của tiết tấu, quỷ sứ của nhịp điệu, con ma của ngôn từ…hay không mà hàng trăm bản nhạc của ông không hề bị hội chứng đều đều, lặp lại ( monotone) trêu chọc, phá đám ?

Phạm Duy, có phải ngay từ trong bụng mẹ, máu Sông Hồng đã ngấm vào máu ông, hồn cốt Thăng Long trong ca dao, dân ca, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Trãi, thơ thiền Lý Trần cùng với heo may Hồ Gươm, mưa phùn Hồ Tây, gió bấc Kinh Bắc, hương cốm mùa thu chim ngói Mễ Trì, thoang thoảng hương hoa các làng hoa Ngọc hà, Nghi tàm, Nhật tân, Quảng bá ngát hơi xuân…đã làm nên máu thịt hồn ông ?  Nên đất ấy, hồ ấy, thu ấy, khí thiêng ấy, chim ấy, thơ văn ấy, gió bấc ấy, hương hoa ấy, làn điệu chèo ấy, quan họ ấy… đã mượn hồn ông mà hát lên cõi u u đất trời, hát lên nỗi lòng con người buồn vui khóc cười xứ Bắc ?

Từ tấm bé, qua gia đình, cha mẹ, qua khí trời bàng bạc thu Hà thành, qua sách vở nhà trường, qua nỗi mơ hồ thiên địa, Phạm Duy đã tắm mình trong tâm hồn dân tộc. Từ năm 1947, ông đã có một định hướng nghệ thuật hết sức đúng đắn : để cả cuộc đời nghiên cứu dân ca, ca dao, tiếp thu tinh hoa âm nhạc dân tộc, phát triển và nâng cao chúng để kết hợp với nhạc Tây phương vừa du nhập vào nước ta qua nhạc nhà thờ, qua các bản giao hưởng cổ điển trong đĩa nhạc, các ca khúc Pháp, Ý… tân thời hát trong tiệm nhảy, quán café được thanh niên trí thức Hà thành học đòi bắt chước…

Có thể nói, Phạm Duy là nhạc sĩ đầu tiên đã nghiên cứu âm nhạc dân tộc một cách hệ thống, rốt ráo, đã học tập, tiếp thu tinh hoa cha ông trong nhạc ngũ cung, nâng cao lên để kết hợp với trào lưu “ âm nhạc cải cách”( musicque renovée) thời 1938-1945 mà thành phong cách phi phong cách ( một phong cách đa phong cách không dừng lại ở một air nhạc nào) có tên là phong cách Phạm Duy, khiến người nghe nhạc ông không hề cảm thấy sự nhàm chán …

Phạm Duy, ông không phải là tháp Bayon bốn mặt của đền đài Anko Thom, Anko Vát xứ Chùa Tháp. Nhưng ông chính là tháp Bayon muôn mặt của dòng tân nhạc Việt Nam suốt 70 năm qua. Gương mặt tâm hồn ông, gương mặt âm nhạc ông quả là muôn mặt : mặt dịu hiền, mặt thiết tha êm đềm êm ái, mặt tinh khiết, mặt tươi như mặt thiếu phụ đêm xuân yêu chồng, mặt cau có đau khổ như mặt gã trai thất tình, mặt quằn quại, mặt vò xé tang thương, mặt mê ly khoái lạc, mặt dúm dó nhàu nát, mặt thất thần, mặt điêu linh, mặt lênh đênh phiêu bạt, mặt thất sắc vô hồn, mặt hoen rỉ tối tăm, mặt hư vô hư ảnh, mặt nết đa đoan trang, mặt đĩ thõa, mặt giập nát, mặt sáng bừng như trăng, mặt hoa da phấn, mặt ngây ngô, mặt tiếu lâm, mặt hồng diện đa dâm thủy, mặt nạ người, mặt yêu tinh, mặt nạ dòng vớ được giai tơ, mặt hoài nghi khôn xiết, mặt thăm thẳm vực sâu, mặt buồn đêm ngơ ngác…Tất cả muôn mặt đó họp chợ lại thành gương mặt Phạm Duy – một mình làm cả một nền âm nhạc…He he he he…

Đi tận cùng tâm hồn dân tộc, Phạm Duy đã gặp tinh hoa thế giới và trở thành hiện đại bằng sự sáng tạo mang chất thiên tài của mình.

Xin quý bạn đọc nghe vài người khác nói về nhạc sĩ Phạm Duy :

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý: “Trong ‘gia tài’ của Phạm Duy, có những tác phẩm mà qua lăng kính của mình ông đã nói lên những triết lý sâu sắc. Chẳng hạn như ‘Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với cười’… Công tâm mà nói, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ”. (Trong bài viết Phạm Duy, người bạn, người anh, người thầy của tôi).

Nhạc sĩ Lê Uyên Phương: “Như tiếng chuông vọng đến từ hư vô. Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như những tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông giá lạnh. Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đã đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí quyển của ca dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc Việt Nam. Trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam, từ đã từng là một thiếu niên trong thời kháng chiến hay đến hôm nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang một dấu vết nào đó còn sót lại của bầu dưỡng khí đã nuôi lớn tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ này” (Trích bài viết Phạm Duy, nắng chiều rực rỡ)

Thi sĩ Nguyên Sa: ‘Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây với Hoàng Cầm Ca, có những tín đồ của Thiền Ca. Có những người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng, của mini opera và của thánh ca hơn Phạm Duy của Tình ca, Phạm Duy của dân ca, Phạm Duy của Kháng chiến ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc. Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ có Phạm Duy của Tình ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy Kháng Chiến Ca. Chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy, chỉ có Phạm Duỵ… Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi, viên kim cương có một ngàn mặt. Khác biệt với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải bàn cãi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một đại dương”.

Nhạc sĩ Phạm Duy

với Hộ khẩu & Chứng minh nhân dân

===

Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5/10/1921 tại Hà Nội trong một gia đình văn nghiệp. Cha là Phạm Duy Tốn thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine…

Cuộc đời của ông ngoài việc ca hát, sáng tác nhạc còn có giai đoạn thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, và cùng chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng… Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay Cô hái mơ. Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều.

Bạn muốn biết thêm về tiểu sử nhạc sĩ Phạm Duy, chỉ cần vào trang tìm kiếm http://www.google.com  đánh hai từ Phạm Duy là từ điển mạng ( Wikipedia) sẽ cung cấp đủ cho bạn. Cũng như vậy, bạn vào trang tìm kiếm trên, đánh từ khóa : Album nhạc Phạm Duy là có thể nghe được ngót trăm Album nhạc của ông người trời họ Phạm…

http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/75

Ngày 14/8/1999 tại nhà riêng, thị trấn Midway City, miền Nam California, danh ca Thái Hằng, hiền thê của nhạc sĩ Phạm Duy đã từ trần, hưởng thọ 72 tuổi ( 1927-1999), bỏ lại trên trần gian một người chồng tưởng nghiêng trời lệch đất, tưởng như một con khủng long âm nhạc lừng lững trần ai, bỗng giờ đây bị nỗi cô đơn khủng khiếp đến rợn người úp chụp lên đầu như trời sập. Chính từ nỗi cô đơn đến tuyệt vọng vì sự ra đi của người bạn đời mà ý định “ cóc chết ba năm quay đầu về núi”, tức về hẳn Việt Nam sống nơi Phạm Duy hình thành. Sau một lần về nước thử xem một ông già từng chống cộng, nay chỉ thích chống gậy (!) coi cộng sản có còn thích bắt nhốt mình hay nữa không như hồi năm 1975? Nói dại, nếu hồi ấy ông không lẹ chân di tản, lỡ kẹt lại, Phạm Duy có thể phải ở tù cho tới chết. Năm 2005 Phạm Duy về nước sống thật, quyết định ở luôn quê hương cho đến khi ông xanh gọi về với tổ tiên.

Lập tức Phạm Duy  bị một số báo chí hải ngoại cực đoan ( chống cộng bằng chính phương pháp chụp mũ chính trị kiểu cộng sản) ném đá tơi bời hoa lá. Họ dùng tất cả sự tục tằn, thô bỉ, thậm chí dùng cả cứt đái của toàn nhân loại đổ chụp lên đầu một ông già thân cô thế cô, một mình hồi hương về cố quốc để sống nốt những ngày tàn và để chết. Họ gọi ông bằng thằng, bằng mày, bằng chó ghẻ, bằng quân nọ, quân kia. Họ cho ông ăn tất cả món dơ bẩn nhất trần đời. Rằng, làm như tất cả tội lỗi của cộng sản đều do Phạm Duy gây ra. Rằng, làm như Phạm Duy chính là thằng già đã mang tà thuyết về làm hại dân tộc, đất nước vậy …

Phạm Duy vốn là một tay chơi, một bố già đanh đá có hạng, một người nếu cần cũng mồm loa mép giải như ai, cũng anh chị Cầu Muối như ai, cũng có thể chơi cả đòn đầu đường xó chợ dao búa ( dao búa kiểu chữ nghĩa, dao búa tượng trưng) xem có chết ai nào, có mà còn khuya mới bắt nạt được bố nhá ! Phạm Duy một mình lủi thủi, túc tắc  “bút chiến” với cái đám vong thân chính trị ô hợp, một trăm ông chống cộng đều chống nhau kia bằng chiến trường Internet. Trong cuộc chiến muôn chống lại một này, chữ nghĩa trên màn hình vi tính của hai bên đều a-la-sô xung phong ồ ạt, để lại  từng đống xác chữ chết như ngả rạ trên chiến trường ảo điện báo.

Phạm Duy dùng chiếc que bông phèng cà rỡn chọc vào tổ ong vò vẽ hải ngoại : này các con giời kia, các con đã mấy chục năm nghe nhạc chùa của bố không phải trả tiền, nay còn tính ăn thịt bố chỉ còn xương bọc da nữa hay sao? Rằng, bố làm nhạc khi toàn ngồi trên bệ xí nhà vệ sinh đấy, nhạc của bố đôi khi cũng bốc mùi tí ti, sao các con chỉ cảm thấy thơm điếc mũi thế hả ? ( Chuyện này thì thiên tài  Alb. Einstein đã từng tuyên bố : tôi nghĩ ra thuyết tương đối khi ngồi trong toilet đấy !). Thế là đám kẻ thù của “thằng già lơ láo về hàng cộng sản” liền nhảy dựng lên kêu gọi, rằng ai có tro dùng tro, ai có trấu dùng trấu, ai có phân dùng phân, phen này quyết ném vào mặt thằng “dê già”, thằng “loạn luân” “ ăn chè Nhà Bè” năm xưa toàn bộ tinh thần căm thù không đội trời chung của người quốc gia chân chính ha ha ha …

Họ thi nhau bịa chuyện bôi nhọ Phạm Duy, bới móc đời tư của ông rồi chửi rủa bằng những từ ngữ bẩn thỉu nhất, hè nhau quy chụp chính trị một ông già cô đơn muốn về quê cha đất tổ để chết. Riết rồi Phạm Duy cũng mệt, hơi đếch đâu mà cãi nhau với đám bùng nhùng ba bứa ấy? Nè, bố mượn phép thắng lợi tinh thần của chú AQ Lỗ Tấn mà tạm phán rằng : các “moa” chửi “toa” cũng như đang chửi bố các “moa” mà thôi…

Những người đồng hương tị nạn ném đá vào Phạm Duy qua biển Thái Bình Dương chung quy cũng chả làm cóc gì được ông, lại còn có khi bị khí chất đanh đá cá cày đáo để chua ngoa của “vũ khí mất gà” nơi ông chơi lại tóe khói chứ chẳng chơi. Nhưng khi những người anh em bên kia giới tuyến nơi cố quốc cũng nhạc sĩ như ai, cũng trí thức trí ngủ như ai thi nhau ném đá vào ông thì ông đành thở dài, im lặng chịu đau, giả mù, giả câm giả điếc để ngồi nghe nỗi đời nhiễu nhương ra đòn thù ghen ghét tài năng.

Ấy là vào năm 2005, sau khi về nước, Phạm Duy được công ty văn hóa tư nhân Phương Nam mua đứt bản quyền trọn đời âm nhạc, trả cho ông một số tiền thù lao kha khá là một căn nhà khang trang để ở và những đêm ca nhạc rầm rộ. Công Phương Nam độc quyền bán vé  kinh doanh những đêm nhạc Phạm Duy,  lời ăn lỗ chịu, tuyệt nhiên không có sự bù lỗ của nhà nước như khi các ông nhạc sĩ quốc doanh làm đêm nhạc dối già.

Công chúng náo nức đi nghe nhạc Phạm Duy đông chật các nhà hát, thậm chí không đủ vé bán, có người còn phải mua vé lậu, vé chui đắt gấp hai ba lần giá vé chính thức. Phạm Duy bị “vây giữa tình yêu” bởi lòng yêu mến của công chúng nơi cố quận với ông đã bị dồn nén mấy chục năm trời nay chợt bùng vỡ. Ông bị dìm đến có cơ ngạt thở trong những  tràng pháo tay nổ rền như dàn sơn pháo đại hợp xướng Tân Tây lan chơi liên tù tì thời chiến tranh Việt Mỹ.

Thói đời, ma cũ bắt nạt ma mới, đám nhạc sĩ cây đa cây đề trong Hội nhạc sĩ Việt Nam thấy NGÀY TRỞ VỀ của Phạm Duy được công chúng đón rước rất huy hoàng, hoành tráng, có vẻ giống như dân Pháp xưa đón Nã Phá Luân chiến thắng từ châu Phi trở về… bèn nóng mặt, ghét cay ghét đắng mà hè nhau ném đá vào Phạm Duy, toàn những cục đá vu cáo chính trị to bằng nắm tay, có vẻ muốn khích nhà cầm quyền cấm tiệt nhạc Phạm Duy, hay giam lỏng ông cho nhạc cách mạng của các ông nhạc sĩ bất tài lên ngôi…

Mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy tại quốc nội, nhạc sĩ kiêm nhà báo Nguyễn Lưu ( con trai nhân sĩ Nguyễn Xiển 1907-1997, từng là tổng thư ký đảng xã hội Việt Nam, phó chủ tịch ban thường vụ quốc hội Việt Nam) viết trên báo “ Đầu tư” ngày 13-3-2006 bài : “Không thể tung hô” như sau :

“Tôi muốn nói đến trường hợp của nhạc sĩ Phạm Duy, người mới được xưng tụng sau đêm nhạc “Ngày trở về” (diễn ra tại Nhà hát Hòa Bình, TP.HCM). Một người bạn, nhà văn Chu Lai đã tỏ ra tâm đắc với ý tưởng này và cho biết, Tạp chí Thế giới mới số mới nhất có đăng một bài viết, với nội dung gói gọn: “Một người từng bỏ kháng chiến theo thực dân Pháp, khi Pháp rút lại theo Ngô Đình Diệm và khi ngụy quyền sụp đổ lại chạy qua Mỹ. Và tại đó, đã viết hàng loạt bài kêu gọi chống Cộng, với giọng điệu “sặc mùi” hiếu chiến. Nay, thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại xin trở về! Hà cớ gì phải tung hô, xưng tụng đến như thế!“.

http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/200611/142394.aspx

Cũng trên bài báo này, nhạc sĩ Nguyễn Lưu quy chụp chính trị nhạc sĩ Phạm Duy bằng đòn vu khống chính trị bịa đặt trắng trợn như sau :

“Đỉnh cao” sự nghiệp chống Cộng của Phạm Duy là bài Mùa thu chết. Ở đó, tác giả đã công khai tư tưởng chống Cộng của mình. Ông ta đã từ bỏ tình yêu với Tổ quốc bằng một bút pháp thật sâu cay, đểu giả và ít ai quên cái mùa thu trong ca khúc ấy chính là Cách mạng mùa thu, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. (Bài báo Không thể tung hô của tác giả Nguyễn Lưu đăng trên Báo Đầu tư ngày 13.3.2006 )

Xin nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu coi lại xuất xứ bài hát này của nhạc sĩ Phạm Duy: “Mùa thu chết” rất nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy là phổ thơ của thi hào Pháp Apollinaire (1880-1918) . Bài thơ của Apollinaire chỉ có 5 câu, mang tựa đề L’Adieu (Vĩnh biệt),  nguyên văn:

J’ai cueilli ce brin de bruyère

L’automne est morte souviens-t’en

Nous ne nous verrons plus sur terre

Odeur du temps brin de bruyère

Et souviens-toi que je t’attends

Tạm dịch:

Ta ngắt một cành thạch thảo

Em hãy nhớ cho mùa thu đã chết rồi

Chúng ta không còn được nhìn nhau nữa trên đời

Mùi thời gian đẫm hương thạch thảo

Em hãy nhớ rằng ta vẫn chờ em

Căn cứ trên giấy trắng mực đen vừa dẫn trên, Nguyễn Lưu cần phải viết thêm một bài lên án chính tác giả bài thơ là thi hào Apollinaire – người đã mất từ năm 1918 – chính là người đã “chống cộng” vì dám bảo Mùa thu cách mạng tháng tám 1945 ĐÃ CHẾT, chứ nào phải Phạm Duy…Chưa từng thấy sự xuyên tạc văn bản nào trắng trợn và hèn hạ, dốt nát  hơn sự xuyên tạc của ông Nguyễn Lưu với bài thơ phổ nhạc “Mùa thu chết” này…

Nguyễn Lưu còn kéo thêm các nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, nhạc sĩ  Tân Huyền vào băng nhóm ném đá Phạm Duy chỉ vì trò ghen tức, đố kị người tài năng hơn mình, khi thấy quần chúng bày tỏ lòng yêu thích nhạc Phạm Duy một cách cuồng nhiệt trong đêm nhạc “Ngày trở về” như đã nêu trên.

Ngay sau bài mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy của Hội nhạc sĩ Việt Nam do nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu làm tiên phong, đã đến lượt quân đỏ xuất tướng bằng bài viết “Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói” của Khánh Thi trên tờ “ An ninh thế giới” số tháng 4-2009 của Trung tướng công an Hữu Ước. Nhà báo Khánh Thy ghi lại sự phản ứng rất tức giận của ba nhạc sĩ cây đa cây đề trong nước, xin trích vài đoạn sau :

Nhạc sỹ – NSND Trọng Bằng – nguyên tổng thư ký ( tức chủ tịch) Hội nhạc sĩ Việt Nam

Tôi có đọc trên báo thấy có nhiều lời tâng bốc cũng hơi là lạ, không quen.

Dư luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi. Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết ta.

Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc.

NS Phạm Tuyên

. Bởi lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó tìm tòi về mặt sáng tạo âm nhạc ở trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng.

Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng. Sự đóng góp của nhạc sỹ Văn Cao rất phong phú, bây giờ được ghi nhận là người có đóng góp lớn cho đất nước và âm nhạc Việt Nam.

Tôi chỉ có một suy nghĩ nhỏ, chúng ta chúc cho ngày trở về của nhạc sỹ Phạm Duy là một sự trở về của lá rụng về cội. Còn đánh giá về con người, nhất là đánh giá về tác phẩm thì phải rất thận trọng, công bằng và đúng bản chất, một phần nào đó phải có giới hạn. Đừng chạy theo thị hiếu, theo cơ chế thị trường mà quá đề cao sự đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, như vậy mới xứng đáng với lịch sử, với những người đã đổ máu xương cho đất nước, cho dân tộc được có ngày hôm nay.

NS Hồng Đăng

 

Ảnh: T.P.

Nhưng gần đây, báo chí lại rộ lên về những chương trình của Phạm Duy. Tôi cũng nghe rất nhiều người phàn nàn là tác phẩm của Phạm Duy như thế mà báo chí tâng bốc, đề cao đến mức y như là nhân vật số một của âm nhạc Việt Nam hiện nay, và là người nhạc sỹ kỳ tài. Điều ấy là vô lý, như thế không đúng, huống gì lại xem như người có công lớn (?!).

So sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng thích và không phải bài nào công chúng cũng thích.

Trong lúc ấy chúng ta có những tên tuổi lừng lẫy từ Đỗ Nhuận, Văn Cao, Lê Yên, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Hoàng Vân, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, và còn rất nhiều người khác đã gắn bó với những ngày gian khổ, thiếu thốn cùng cực của đất nước chỉ để góp một chút gì của mình cho cuộc chiến tranh vệ quốc.

Từ ngày anh đi, anh Duy ạ, nền âm nhạc của chúng ta đã khác trước nhiều lắm. Từ một đội ngũ thưa thớt thời của anh, giờ đây không biết bao nhiêu tên tuổi nổi lên một cách xứng đáng, có hiểu biết, có tìm tòi, khác xa thời anh bỏ khu III, khu IV mà đi. Tất nhiên anh Phạm Duy có thể kiêu một tý cũng chẳng sao, (thói thường mà)! Nhưng những người hướng dẫn dư luận có lẽ nên nghĩ kỹ một tí, để khách quan hơn, công bằng hơn. Còn riêng một chi tiết nhỏ về chuyên môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm.

  (Khánh Thy thực hiện)

Nguồn : Antgct.cand.com.vn/vi-vn/nhanvat/2009/5/52937.cand

Thiết nghĩ, những phát biểu, những phản ứng đầy ghen tức, đố kỵ rất cảm tính, thiếu lý tính của ba nhạc sĩ trên sau đêm nhạc rất huy hoàng của nhạc sĩ Phạm Duy diễn ra trong nhà hát lớn Hà Nội cuối tháng 3/2009, sẽ mãi mãi là vết nhọ trên gương mặt âm nhạc của ba vị này, không cách gì gột sạch.

Điều tôi băn khoăn là sao nhạc sĩ Phạm Tuyên ( con út cụ thượng Phạm Quỳnh, người từng bị Việt Minh thủ tiêu sau Cách mạng tháng tám 1945) một người điềm đạm, chín chắn, một trí thức con dòng cháu giống, danh gia vọng tộc, sao lại đi phát ngôn những lời ghen ăn tức ở, ganh tài lộ liễu hơi bị tầm thường với nhạc sĩ Phạm Duy thế ? Xưa nay, tôi từng quý mến anh Phạm Tuyên ( người đã phổ nhạc bài thơ thiếu nhi “ Mèo đi guốc” của tôi, cũng như nhạc sĩ Nguyễn Lưu, người cũng đã từng phổ nhạc bài thơ Kôn Tum của tôi tức TMH)

http://my.opera.com/khaisang2002/blog/2009/07/01/pham-duy

Chính ra, nhạc sĩ Phạm Tuyên – người có nhiều nét tương đồng hoàn cảnh với nhạc sĩ Phạm Duy, hơn ai hết phải biết cảm thông với vị nhạc sĩ “ ba chìm bảy nổi chín lênh đênh” do các trào lưu chính trị xô đẩy suốt mấy chục năm này, sao lại đi ném đá vào người có số phận éo le như mình thế ? Phạm Tuyên đi theo cách mạng bằng mặc cảm tự ti đầy mình, nhục nhã vô hạn với một lý lịch xấu nhất nước : con đại phản động ( Phạm Quỳnh)  bị cách mạng xử bắn, đã phải nhún nhường làm thân phận con sâu cái kiến, đấm ngực ăn năn tội bằng các bài hát “ yêu đảng vượt chỉ tiêu trên giao” suốt mấy chục năm mới được vào đảng…Nhưng thôi, chúng tôi không nói nữa, vì anh Phạm Tuyên còn cả nghĩ hơn tôi nhiều…

Văn hào nước Áo gốc Do Thái Stefan Zweig ( 1881-1942), người đã cùng với vợ là bà Lotte tháng 2 năm 1942 tại Rio de Janeiro, đã làm cuộc tự tử chính trị, bằng cách hai ông bà tự nguyện chết trên ghế điện trong tâm trạng cô đơn tuyệt vọng, để phản đối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai vô nhân đạo do Hítle gây ra, đã từng có câu nói nổi tiếng : “Thân phận con người trong thế kỷ hai mươi là thân phận con người chính trị”.

Ở Việt Nam, ngót 70 năm qua, không chỉ nhạc sĩ Phạm Duy mà đến con kiến cũng phải mang thân phận chính trị. Từng con người Việt Nam mang thân phận bao cát treo lủng lẳng để các tay boxe chính trị  thi nhau đấm như mưa trong các cuộc tập dượt đấu quyền anh cách mạng, quyền anh chiến tranh…

Phạm Duy  mang thân phận bao cát treo lủng lẳng trước những cú đấm tập dượt trời giáng của các tay quyền anh chính trị từ cả hai phía đỏ và xanh, khiến ông bị xô dạt từ bờ chính trị này sang bờ chính trị khác mà không sao chủ động…

Các  nhà “bới móc học” từng cho xem tấm ảnh Phạm Duy mặc bộ đồ bà ba đen của một chiêu hồi viên đứng trên nền nhạc “ Giọt mưa trên lá” để công bố tin chấn động thế giới rằng, tay “tắc kè chính trị” này từng chống cộng khét tiếng đấy à nha…

Có thể trong cuộc đời riêng, vì hoàn cảnh sống đưa đẩy tới chân tường, bắt buộc Phạm Duy phải bị chính trị hóa, nhưng âm nhạc của ông, tuyệt đại đa số các bài hát hay nhất không hề bị chính trị hóa. Có thể ông đã phải mặc bộ đồ bà ba đen của viên chức trong bộ chiêu hồi, nhưng bài hát “ Giọt mưa trên lá” của ông là một kiệt tác âm nhạc không hề phục vụ chính trị, rất khác các bài hát của mấy nhạc sĩ vừa ném đá ông trong chế độ miền Bắc, luôn luôn lấy âm nhạc phục vụ chính trị làm mục đích…

Âm nhạc Phạm Duy đạt được giá trị muôn đời vì đã vượt lên trên các đối kháng chính trị nhất thời. Ấy là cái khác nhau một trời một vực giữa Phạm Duy và Phạm Tuyên vậy.

Nếu cứ lấy lăng kính đạo đức, lăng kính chính trị để soi lên cuộc đời các ông to bà lớn của cả hai phía quân xanh quân đỏ, chúng ta đều chỉ nhìn thấy những âm bản thê thảm mà thôi. Lấy lăng kính chính trị, lăng kính đạo đức ra soi mói cuộc đời riêng của Phạm Duy, rồi phủ nhận sự đóng góp vô cùng to lớn cho dân tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam bằng âm nhạc yêu nước, yêu con người, yêu nhân loại hết cỡ của ông, như hai phía của cực đoan chính trị vừa hùa nhau ném đá ông kể trên, thiết nghĩ là một việc làm thiếu lương thiện.

Trong bộ sách hồi ký đồ sộ của mình, Phạm Duy cũng thừa nhận ông có tài, có tật, ông cũng như ai tham sân si, cũng ăn chơi hút sách cờ bạc…trai gái; nhưng không có rượu chè bê tha à nha. Vụ “ăn chè nhà Bè” là vụ báo chí chơi xỏ ông, bịa đặt thêm mắm thêm muối để đưa tin rẻ tiền cốt bán báo. Chẳng nhẽ, ông không có quyền mời ca sĩ Khánh Ngọc ( một bên là dâu, một bên là rể của đại gia đình họ Phạm) đi quán café để bàn chuyện chuyên môn giữa nhạc sĩ và ca sĩ hay sao ?

Những người ném đá Phạm Duy thường cho ông là người mục hạ vô nhân, khinh người, khinh đồng nghiệp hơn mẻ. Trong hồi ký của mình, Phạm tiên sinh đã nhiều lần cám ơn các nhạc sĩ đã mở đầu nền tân nhạc Việt từ Nguyễn Văn Tuyên đến Đặng Thế Phong. Có cơ hội là ông tìm cách ca ngợi đồng nghiệp. Trong bài hát “ Yêu tinh tình nữ” có câu hát nguyên văn như sau : “Yêu tinh tình nữ thường hát cho tôi nghe bài ca tiền chiến của Đặng Thế Phong hay Văn Cao tuyệt vời”.

Phạm Duy viết về Văn Cao trong hồi ký :

“Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngă vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng.”

http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Duy

Trong hồi ký Thời Cách mạng kháng chiến của Phạm Duy, ông viết :

“Bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại. Văn Cao luôn luôn là một người khai phá và là cha đẻ của loại Trường Ca” (Cali, 1989, tr.121)

Con tàu đất nước hôm nay dường như đang mất thắng, có cơ đâm vào chân tường diệt vong bởi nạn nội xâm và giặc ngoại xâm đe dọa, nơi đời sống tâm hồn dân tộc đang bị tha hóa cực độ, gần như các giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc thời Thơ Mới, thời văn chương Tự lực văn đoàn đang có cơ sụp đổ,  thì việc xuất hiện lại những bài hát đầy nhân bản của Phạm Duy trong nền nhạc Việt hôm nay, hình như đang cho chúng ta cái cơ hội mong manh để hi vọng.

Phạm Duy, tượng đài lớn nhất của nền tân nhạc Việt Nam đang cùng các tượng đài Văn Cao, Trịnh Công Sơn …sừng sững dưới vòm trời văn học nghệ thuật dân tộc, cùng các tượng đài thi ca xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…sẽ mãi mãi trường tồn tới muôn vàn mai hậu.,.

 

Sài Gòn ngày 07-01-2013/ Trần Mạnh Hảo

(Nguồnhttp://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2013/01/07/pham-duy-con-domuon-doi/ )

 

Nhãn: , ,